Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền nhắc
lại lời cảnh giác của các nhà Cách
Mạng Dân Quyền Pháp theo đó "sự khinh
miệt, phủ nhận hay lãng quên nhân quyền là
nguyên nhân duy nhất đem lại đại bất
hạnh cho dân chúng và sa đọa cho chính quyền."
Vậy mà con người lúc vô sự thường
hay vô tâm. Phải đợi đến khi hai
cuộc thế chiến bùng nổ gieo đau thương
tang tóc cho hàng chục triệu con người, lúc
ấy nhân loại mới tỉnh ngộ và nhớ
lại lời cảnh giác xưa. Ngoài ra, giữa hai
cuộc thế chiến và ngay cả trong thời
chiến tranh, nhân loại còn chứng kiến
những cuộc tàn sát dã man, với 20 triệu
nạn nhân tại Liên Bang Xô Viết và 6 triệu
nạn nhân tại Đức Quốc Xã. Những
nạn nhân này không phải là kẻ thù của dân
tộc trong cuộc chiến, mà chỉ là những lương
dân vô tội.
Dư luận quốc tế vô cùng xúc động
và phẫn nộ về những hành động
diệt chủng này. Vậy mà nhân loại văn
minh đã không lên tiếng tố cáo hay phản kháng.
Họ sợ mang tiếng vi phạm chủ quyền
quốc gia, vi phạm quyền dân tộc tự
quyết bằng cách can thiệp vào nội bộ
của các quốc gia khác.
Sau khi chiến tranh kết thúc, nhân loại mới
ý thức rằng quyền dân tộc tự quyết
đã bị lạm dụng. Trên nguyên tắc, dân
tộc tự quyết không phải là quyền
của quốc gia, mà là quyền của người
dân. Chiếu dân tộc tự quyết, người
dân được tự do lựa chọn chế
độ chính trị hay kinh tế và tự do
lựa chọn chính quyền để thực thi
chế độ.
Chiếu nguyên tắc Quân Bình giữa Quyền
Lợi và Nghiã Vụ, quốc gia và công dân cùng có
nghiã vụ hỗ tương. Người dân có nghiã
vụ phải bảo vệ, nuôi dưỡng
quốc gia, phải đóng thuế, phải thi hành
nghiã vụ quân sự để giữ gìn bờ cõi
quốc gia. Để đáp lại những hy sinh
về tài sản và sinh mạng của người dân,
quốc gia cũng có nghiã vụ phải bảo
vệ và tôn trọng quyền của người dân,
như quyền được sống, được
tự do và mưu cầu hạnh phúc.
Sau hai trận thế chiến, nhân loại ý
thức rằng việc thừa nhận nhân quyền
của con người là điều kiện
thiết yếu để duy trì hoà bình thế
giới, tránh một trận thế chiến thứ
ba (chiến tranh nguyên tử) toàn diện và toàn
diệt.
Mùa Xuân năm 1945, 50 quốc gia đã họp
Hội Nghị San Francisco để thành lập Liên
Hiệp Quốc. Nhằm mục đích duy trì hoà bình
cho các quốc gia và thực thi nhân quyền cho con người,
Liên Hiệp Quốc đề ra 3 phương châm hành
động:
-
Không phân biệt kẻ thắng người
bại, Liên Hiệp Quốc chủ trương hoà
giải và hữu nghị giữa các dân tộc.
-
Không đòi hỏi trả thù và bồi thường
chiến tranh, Liên Hiệp Quốc khuyến khích
sự hợp tác bình đẳng giữa các
quốc gia.
-
Không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn
ngữ, hay tôn giáo, Liên Hiệp Quốc yêu
cầu các quốc gia hội viên phải tôn
trọng và thực thi nhân quyền cho tất
cả mọi người.
Các đại biểu của 50 quốc gia hội
viên sáng lập Liên Hiệp Quốc ý thức
rằng mỗi con người là một công dân
của quốc gia mình, đồng thời là công dân
của thế giới; rằng chỉ có thể hoà
bình thế giới nếu quyền của con người
được tôn trọng; rằng nhân quyền cũng
chỉ có thể được thực thi nếu không
còn chiến tranh và bóng dáng de doạ của
chiến tranh.
Do đó họ đồng tình ký tên vào Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc như một
hiệp ước quốc tế, và long trọng cam
kết sẽ phối hợp với Liên Hiệp
Quốc để thực thi hai mục tiêu căn
bản sau đây:
-
Hợp tác quốc tế để giải
quyết mọi mâu thuẫn và tranh chấp trong vòng
hoà bình.
-
Đề xướng và tôn trọng nhân
quyền và những quyền tự do căn
bản của con người.
Khi ký tên vào Hiến Chương, cũng như khi
gia nhập Liên Hiệp Quốc, các quốc gia
hội viên minh thị xác nhận rằng nhân
quyền từ nay không còn đơn thuần là
việc nội bộ của các quốc gia mà là
một vấn đề quốc tế.
Đây là lần đầu tiên trong lịch
sử loài người, các quốc gia có nghiã vụ
đối với người dân, phải tôn
trọng, bảo vệ và thực thi nhân quyền và
những quyền tự do căn bản của con người.
Những quyền này đã được liệt
kê và diễn giải bởi Tuyên Ngôn Quốc Tế
Nhân Quyền ban hành năm 1948, và hai Công Ước
Quốc Tế Nhân Quyền ký kết năm 1966.
Từ đó nhân loại văn minh có luật
Quốc Tế Nhân Quyền. Chúng ta kỳ vọng
rằng trong thế kỷ tới đây, chiến
tranh thế giới sẽ được thay thế
bởi Luật Pháp Thế Giới.
Theo bác sĩ Linus Pauling, người đoạt hai
giải Nobel về Hoá Học và Hoà Bình "chúng
ta đang có cơ may sống trong một kỷ nguyên
kỳ diệu, ranh giới của hai thiên niên
kỷ, thiên kỷ trước với chinh chiến
đau thương và thiên kỷ tới của hoà bình,
an lạc, công lý và đạo lý."
Luật
sư Nguyễn Hữu Thống
Mùa Xuân 1998
(Kỷ niệm 50 năm ban hành Tuyên Ngôn Quốc
Tế Nhân Quyền)
Về đầu bài