VIỆT
NAM ĐẤT NƯỚC TÔI
PHƯƠNG NAM - AUSTRALIA
Hồi nhỏ tôi rất thích câu
chuyện cổ tích Tấm Cám: cô Tấm xinh đẹp, thảo hiền nhưng luôn bị mẹ con nhà Cám
ghen ghét t́m cách hăm hại. Thế rồi Tấm bị chết đi, hóa thành chim vàng anh,
thành cây xoan đào, thành cái khung cửi, và cuối cùng Tấm từ quả thị chui ra
giúp bà cụ phúc hậu kia mọi việc nhà. Một ngày nọ, nhân dừng chân ở quán nước
ven đường, t́nh cờ nhà vua trông thấy những miếng trầu têm cánh phượng rất khéo,
giống hệt như của vợ ḿnh têm ngày nào. Vua bèn ngỏ ư với bà cụ muốn gặp người
têm trầu, Tấm bước ra, vua vô cùng sửng sốt và mừng rỡ được gặp lại vợ ḿnh, lại
c̣n xinh đẹp hơn xưa. Vua cảm ơn bà cụ và xin được rước Tấm về cung. Từ đó hai
người sống bên nhau hạnh phúc đến trọn đời - người ở hiền cuối cùng rồi cũng gặp
lành. C̣n mẹ con nhà Cám - những kẻ gieo gió đă gặt băo, tội ác đă bị trừng phạt
đích đáng. Câu chuyện kết thúc thật "có hậu".
Nhưng khi lớn lên, xem xét
lại câu chuyện dưới một cách nh́n khác, tôi mới giật ḿnh nhận ra rằng : bên
cạnh tính thảo hiền th́ cô Tấm cũng có tính ác độc, v́ nếu hoàn toàn hiền cô
không thể khuyên Cám: "nếu muốn da trắng em chỉ việc đào một cái hố thật sâu rồi
ngồi xuống đó.", Cám tưởng thật nghe lời, đoạn Tấm sai người đem nước sôi dội
xuống làm Cám chết ngay tức khắc. (có người c̣n kể là tự tay Tấm dội !) Vẫn chưa
hết: sau đó Tấm lấy xác Cám rồi làm mắm gửi về cho d́ ghẻ! (trong những sách
xuất bản gần đây, chi tiết này đă được bỏ đi), mẹ Cám không biết vừa ăn vừa khen
ngon. Đến khi ăn hết nh́n xuống đáy hũ thấy đầu lâu con gái ḿnh, mụ sợ quá rú
lên một tiếng rồi ngă vật ra đất chết. Thế là chỉ v́ quá căm phẫn trước những
việc làm thất đức của mẹ con nhà Cám mà các cụ ta ngày xưa đă vô t́nh đẩy cô Tấm
vốn xinh đẹp, thảo hiền là vậy vào ṿng tội lỗi. Đă có vua là phải có pháp đ́nh
rồi th́ tại sao không làm theo phéùp nước? Nếu ai cũng đều làm như vậy th́ xă
hội sẽ đi về đâu?
Tương tự trong truyền
thuyết Chuyện Đẻ Trăm Trứng ta cũng thấy: tại sao ông Lạc Long Quân lại bàn với
bà Âu Cơ chia đàn con của họ ra thành hai nhóm 50/50 để người dẫn lên núi, người
dẫn xuống biển? Sao ông bà không cùng nhau ở lại mà làm ăn sinh sống và nuôi dạy
đàn con của ḿnh trưởng thành? v́ ông bà đă… ly dị đâu! Sau này " đứa nào" muốn
đi mở mang bờ cơi th́ tùy "chúng nó". Mới có … 100 mặt con th́ làm ǵ mà đă sợ
thiếu đất canh tác ! v.v… Cái lư do ông đưa ra rằng bà thuộc giống Tiên, ông
thuộc giống Rồng nên không thể ăn ở với nhau lâu được và nay th́ ông phải xuống
thủy cung để ở với mẹ! tôi cho rằng không có sức thuyết phục, v́ điều đó ông đă
biết từ trước khi cưới rồi cơ mà! (thà rằng ông cứ nói là 2 người tính t́nh
không hợp nhau th́ c̣n khả dỹ!).
Thế là cũng chỉ v́ muốn
chứng minh rằng dân tộc Việt Nam ta là cùng một mẹ đẻ ra, là "đồng bào" của nhau
mà các cụ ta ngày xưa lại nỡ chia rẽ một gia đ́nh đang sống với nhau hạnh phúc
là vậy. Hơn nữa giá như các cụ kể thêm là có một cặp "Long Quân - Âu Cơ" khác
cùng thời, cũng đẻ ra 100 cô gái th́ vấn đề sẽ… đồng bộ hơn! Quả thật tôi cứ
thắc mắc măi là các vua Hùng - những người con trai của ông, bà khi lớn lên đă
kén vợ ở đâu! Không, tôi hoàn toàn không có ư ǵ báng bổ đến tổ tiên ta. Thật
t́nh tôi cũng rất thích câu chuyện này, tuy nó chỉ là truyền thuyết nhưng nó như
một bức thông điệp của ông cha ta từ ngàn xưa, muốn nhắn gửi tới Đàn Chim
Việt hôm nay: dù ai đang ở đâu, đi đâu và làm ǵ th́ chúng ta đều là anh
em cùng một giống ṇi. V́ vậy phải luôn luôn biết đoàn kết, thương yêu và đùm
bọc lẫn nhau.
Từ hai câu chuyện trên có
thể giúp ta những gợi ư sau:
a - Trong cùng một vấn đề
thường có tính hai mặt tương phản nhau. Nếu chỉ thấy được mặt này mà không thấy
được mặt kia hoặc ngược lại th́ cách giải quyết nó sẽ không đồng bộ. Có thể lúc
này ta thấy nó ổn nhưng khi khác, hoàn cảnh cũng đă khác đi lại thấy nó rất
không ổn, có khi c̣n sai hoàn toàn. Lúc ấy phải dứt khoát đoạn tuyệt với nó để
cái mới ra đời, thay thế và phát triển theo quy luật.
b - Cuộc sống là rất đa
dạng và phong phú, nên trong cùng một vấn đề mỗi người khác nhau thường có cách
nh́n nhận và giải quyết nó cũng khác nhau. Nếu đấy là những vấn đề riêng th́
quyết định cuối cùng thuộc về những cá nhân đó. Nhưng nếu đấy là những vấn đề
chung, liên quan đến nhiều người th́ phải tuân theo nguyên tắc: thiểu số phục
tùng đa số, tức số ít phải chấp thuận quyết định của số nhiều. Nói như vậy không
có nghĩa là số c̣n lại bị bỏ rơi, một quyết định tốt nhất phải là sự tổng hợp
cao nhất mọi ư kiến, dù là nhỏ. Một điểm quan trọng nữa là những người liên quan
phải có được những thông tin trung thực và đầy đủ trước khi họ ra quyết định
cuối cùng.
c - Cuộc sống càng hiện đại
th́ yêu cầu xem xét lại những vấn đề của ngày hôm qua xem chúng có c̣n phù hợp
với hôm nay hay không, lại càng phải được đặt ra một cách cấp bách và nghiêm
túc. Từ đó sẽ t́m ra những phương cách giải quyết chúng sao cho thích hợp với
hiện tại.
Từ những gợi ư trên trong
bài viết này tôi xin được tŕnh bày 5 vấn đề sau đây:
1 - Hệ thống xă hội chủ
nghĩa trong thế kỷ 20 vừa qua (1917 - 1991).
2 - Hoàn cảnh mà chủ tịch Hồ Chí
Minh đă chọn con đường đi cho dân tộc Việt Nam.
3 - Đường lối "xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa" ở Việt Nam hiện nay.
4 -
Nền dân chủ Việt Nam và một ư kiến đề nghị.
5 - Vấn đề đoàn kết dân tộc -
những niềm tin tưởng.
Tôi hiểu rằng đây là những
vấn đề rất rộng và phức tạp, đă có nhiều người viết và nói về nó. Nhưng điều đó
chẳng những không ngăn cản tôi nói lên ư kiến riêng của ḿnh, mà ngược lại, nó
là những nguồn tư liệu phong phú, nguồn động viên tinh thần rất lớn đối với tôi.
Với hy vọng rằng trong số những điều viết ra, nếu có điều nào đó có ích cho đất
nước ḿnh, th́ đó chính là niềm khích lệ lớn đối với tôi rồi.
Viết về quê hương Việt Nam
nhà thơ Nguyễn Đ́nh Thi đă có bài sau đây:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông
biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh c̣ bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường
Sơn sớm chiều
Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đă chịu nhiều
thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm
bùn
Đất nghèo nuôi những anh hùng
Ch́m trong máu lửa lại vùng đứng
lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa.
Việt
Nam đất nắng chan ḥa
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
Mắt đen cô gái
long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm t́nh thủy chung
Đất trăm nghề của trăm
vùng
Khách phương xa tới lạ lùng t́m xem
Tay người như có phép
tiên
Trên tre lá cũng dệt ngh́n bài thơ
Nước bâng khuâng những bến
đ̣
Đêm đêm c̣n vọng câu ḥ Trương Chi
Đói nghèo nên phải chia ly
Xót xa
ḷng kẻ rời quê lên đường
Ta đi ta nhớ núi rừng
Ta đi ta nhớ ḍng sông vỗ
bờ
Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô
Bát cơm rau muống quả cà gịn
tan…
Có lẽ không người Việt Nam
nào, khi đọc bài thơ này lại không thấy được một phần máu thịt của ḿnh ở trong
đó. Cái mảnh đất h́nh chữ S nằm bên bờ Thái B́nh Dương ấy là Tổ Quốc chung của
mọi người con đất Việt, dù họ đang sống ở trong hay ngoài nước . Tôi không có
khả năng làm thơ để viết về đất nước ḿnh, nhưng cũng như bao người Việt Nam
khác, tôi yêu đất nước tôi và đó chính là động cơ duy nhất để tôi viết bài này,
trong đó có cả câu "súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa" cũng cần phải được nh́n
nhận lại. Và bây giờ, xin mời quư vị và các bạn hăy cùng tôi lần lượt đi qua 5
phần trên.
1 - Hệ thống xă hội chủ
nghĩa trong thế kỷ 20 vừa qua (1917 - 1991).
1.1- Sự h́nh
thành:
- Cuộc cách mạng tháng 10
Nga năm 1917 đă diễn ra và giành được thắng lợi bằng con đường bạo lực, lật đổ
được chế độ Nga hoàng và lập nên một nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới. Tức
nhà nước Liên Xô sau này, do Lê Nin đứng đầu. (V.I Lenine 1870 - 1924).
- Năm 1945 trên đường tiến
vào Berlin, hồng quân Liên Xô đă giúp hàng loạt nước Đông Âu thoát khỏi ách phát
xít. Sau đó các nước này ra nhập vào hệ thống xă hội chủ nghĩa gọi tắt là phe
XHCN, do Liên Xô đứng đầu. Sau có thêm bốn nước nữa là: Trung Quốc (1949), Cộng
ḥa DCND Triều Tiên (Bắc Hàn - 1953), Cu Ba (1959) và Việt Nam (miền Bắc 1954,
cả nước 1975). Đưa tổng số các nước trong toàn hệ thống lên 13 nước. Hệ thống ấy
tồn tại đến năm 1991 th́ tan ră, do sự sụp đổ của các nước Đông Âu và Liên Xô,
đến nay chỉ c̣n lại bốn nước sau nói trên.
Có 3 đặc điểm lớn trong hệ
thống này là:
a) Hầu hết đều có điểm xuất
phát thấp: khá nhất là các nước Đông Âu, sau đó là Liên Xô và thấp nhất là bốn
nước c̣n lại. (cụ thể là: nền công nghiệp chưa phát triển,tŕnh độ dân trí và
dân chủ c̣n thấp, người dân c̣n nghèo, ... đặc biệt hai nước Trung Quốc và Việt
Nam c̣n bị ảnh hưởng rất nặng nề bởi thuyết Khổng, Mạnh và người dân vẫn c̣n rất
tin vào số mệnh.)
b) Đa số đều ra đời sau các
cuộc chiến tranh hoặc nội chiến, mà ở đó các ĐCS lên nắm chính quyền.
c) Vai tṛ quyết định của
Liên Xô: nếu không có Liên Xô th́ chắc chắn không thể có hệ thống XHCN trong thế
kỷ 20 vừa qua.
Như chúng ta đă biết: nhân
tố quyết định cho thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga là vai tṛ lănh đạo của
đảng cộng sản Nga, ĐCS Nga lại bắt nguồn từ phong trào cộng sản quốc tế. Nó xuất
hiện từ nửa sau thế kỷ 19 ở Tây Âu bởi chủ nghĩa Mác, c̣n được gọi là Chủ nghĩa
cộng sản (Karl Marx 1818 - 1883). Chủ nghĩa Mác lại được h́nh thành bởi học
thuyết của ông. V́ vậy muốn đi t́m nguyên nhân h́nh thành cũng như tan ră của
phong trào cộng sản quốc tế nói chung, cũng như của hệ thống XHCN nói riêng
trong thế kỷ 20 vừa qua, chính là việc đi t́m cơ sở h́nh thành nên học thuyết
Mác
Có thể tóm tắt phần cốt lơi
đă h́nh thành nên học thuyết ấy như sau : Mác cho rằng xă hội tư bản sở dĩ có
bóc lôït là do có sự tư hữu về tư liệu sản xuất. Hễ tư hữu càng nhiều th́ bất
công càng lắm, khi mâu thuẫn do nỗi bất công ấy gây ra lên tới đỉnh cao, th́ chỉ
có cách giải quyết duy nhất là thủ tiêu nguyên nhân sinh ra nó. Tức là phải "xóa
tư hữu" thông qua một cuộc Cách mạng vô sản, bằng con đường bạo lực . Trong
Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản, Mác viết chung với Ăng-Ghen (F.Engels 1820 -1895) năm
1848 có đoạn : "Những người cộng sản có thể tóm tắt lư luận của ḿnh thành
một luận điểm duy nhất là: xóa bỏ chế độ tư hữu".
Và ông tiếp: lực lượng ṇng
cốt của cuộc cách mạng vô sản là giai cấp công nhân, đặt dưới sự lănh đạo của
đảng cộng sản (ĐCS). Khi cách mạng thành công rồi th́ một nhà nước vô sản sẽ ra
đời để xây dựng một chế độ mới, dựa trên cơ sở "công hữu". Đây là chế độ công
bằng và dân chủ nhất cho tất cả mọi người, chưa hề có trong lịch sử loài người.
V́ nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với mọi h́nh thức bóc lột.
Cuối cùng Mác kêu gọi:
"Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!" và một khi cách mạng vô sản
giành được toàn thắng th́ thế giới sẽ đại đồng. Mùa xuân của nhân loại sẽ đến
ngay trên trái đất này chứ chẳng phải đi t́m kiếm ở đâu xa. Lúc ấy vai tṛ lănh
đạo của các ĐCS, vai tṛ quản lư của các nhà nước vô sản sẽ không c̣n cần thiết
nữa, nó sẽ tự triệt tiêu .(!)
Quả thật nếu được như vậy
th́ ai không muốn, chẳng thế mà trong suốt một thế kỷ rưỡi qua đă có biết bao
nhiêu người say mê nó. Người vô sản đă đành, rất nhiều người hữu sản cũng quyết
dấn thân, bởi v́ họ nghĩ tới muôn đời con cháu mai sau. Thế nhưng có điều là
ngay ở điểm xuất phát của học thuyết này : "Sở dỹ có bóc lột là do có sự tư hữu"
đă có sự bất ổn lớn. V́ để chứng minh nó, Mác đă khảo sát quá tŕnh mà ông gọi
là "Tái sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa". Ở đó ông chia nó thành hai quá
tŕnh nhỏ hơn là sản xuất và lưu thông hàng hóa, và ông nhận xét :
Trong lưu thông không tạo
ra giá trị cho hàng hóa, dù là trao đổi ngang giá hay không ngang giá. Chỉ có
trong quá tŕnh sản xuất mới tạo ra được giá trị cho hàng hóa, và cũng chỉ có
duy nhất yếu tố người công nhân mới có khả năng tạo được giá trị mới, lớn hơn
cái giá trị mà nhà tư bản đă thuê anh ta dưới h́nh thức tiền lương. Giá trị
chênh lệch ấy gọi là giá trị thặng dư, mà người công nhân đă bị nhà tư bản bóc
lột toàn bộ.
Giả sử mọi lập luận của Mác
dẫn tới nhận xét trên là đúng hết, th́ điều quan trọng sau đây cũng đủ làm cho
nó sai, nguyên nhân là trước đó ông đă tự đặt ra những giới hạn để khảo sát quá
tŕnh này. Đó là :
- Về không gian: chỉ ở một
vài nước Tây Âu phát triển nhất lúc bấy giờ như Anh,Pháp, Đức, Ư,...
- Về đối tượng và lĩnh vực
nghiên cứu: chủ yếu quan tâm đến mối quan hệ giữa nhà tư bản và người công nhân
trong ngành công nghiệp cơ khí.
- Về thời gian nghiên cứu :
chủ yếu là từ thập niên 40 đến 60 của thế kỷ 19.
Khi nhân loại chỉ mới biết
đến cái cỗ máy chạy bằng hơi nước được phát minh ra đầu tiên năm 1712. Nó cũng
được coi là thời điểm đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ từ nền văn minh nông
nghiệp sang văn minh công nghiệp. Măi tới năm 1876, trước khi Mác mất 7 năm
(1883) th́ động cơ đốt trong mới xuất hiện, khi mà Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản đă
ra đời, Quốc Tế Vô Sản I do Mác và các đồng chí của ông cũng đă được thành lập
tại London - Anh (1864), và năm 1892 - 9 năm sau khi Mác mất, th́ công ty cung
cấp điện đầu tiên trên thế giới (General Electric) mới được ra đời tại Mỹ.
- Không có các yếu tố xuất
nhập khẩu như: XNK hàng hóa, lao động, công nghệ, tư bản (vốn), ... mà thời Mác
cũng đă có. (ông đưa ra rất nhiều bảng biểu về nó nhưng chỉ để minh họa, chứ
không đưa nó vào khảo sát như là một yếu tố của quá tŕnh này.) - V.V…
Những vùng đất khác trên
thế giới, những ngành khác trong nền kinh tế, những thành phần khác trong xă hội
như : các viên chức chính phủ (kể cả quân đội và cảnh sát), các nhà hoạt động
chính trị, tư tưởng, tôn giáo, văn hóa, khoa học, văn nghệ sỹ, chủ đất, tiểu
chủ, tiểu nông, bần cố nông, v.v ... được ông gọi chung là "các giai cấp trung
gian", tuy có được ông nhắc đến nhưng rất không đầy đủ, thậm chí có những yếu tố
gần như bỏ trống. Chẳng hạn như vùng đất châu Á ông rất xa lạ.
Với một bài toán mà các dữ
kiện vừøa thiếu hoặc nếu có lại bị giới hạn tới mức ấy, th́ ngay cả vào thời Mác
nó đă cho kết quả khác đi rồi. Và một khi kết quả khác đi th́ cách giải quyết
vấn đề cũng phải khác đi, như vậy mới là hợp lư. Hơn nữa, cứ giả sử nó đúng ở
Tây Âu nhưng chắc ǵ nó đă đúng ở Đông Âu, Liên Xô, Châu Á, Phi, Mỹ, Úc ?… (ta
giả sử thôi, v́ trong thực tế là không có một nước XHCN nào ở Tây Âu cả). Đúng
trong ngành công nghiệp cơ khí, nhưng c̣n các ngành khác, với các giai tầng khác
trong xă hội th́ sao? Những mâu thuẫn giải quyết thế nào? Đúng trong nền kinh tế
đóng, nhưng chắc ǵ đă đúng trong nền kinh tế mở, có xuất nhập khẩu? v.v…
Rất tiếc là từ kết quả trên
(A), c̣n được gọi là lư luận về giá trị thặng dư, Mác đă dùng nó làm cơ
sở ban đầu để phát minh ra hàng loạt các kết quả khác sau đó (B). Rồi cuối cùng
ông đă thừa thắng đẩy vấn đề tới tận "mùa xuân của nhân loại" như chúng ta đă
biết. Nhưng có A th́ mới có B, mà A đă sai rồi th́ B làm sao đúng được? Chưa kể
là trong những cái B ấy lại có những điểm vô lư của riêng chúng nữa:
Ví dụ, Mác cho rằng đấu
tranh giai cấp là động lực phát triển trong xă hội có giai cấp, (c̣n được gọi là
lư luận về đấu tranh giai cấp). Nhưng cũng chính ông lại cho rằng: trong xă hội
cộng sản nguyên thủy c̣n hoang sơ nên chưa có giai cấp, và trong xă hội Cộng sản
chủ nghĩa tương lai th́ không c̣n sự phân biệt giai cấp nữa. Vậy th́ chúng lấy
đâu ra động lực để phát triển? Ông cho rằng trong tương lai con người sẽ có ư
thức xă hội rất cao, nó sẽ chiến thắng con người cá nhân, và đó chính là động
lực cho sự phát triển xă hội. Nhưng liệu điều đó có đạt được hay không ? Tôi xin
được trở lại vấn đề này ở những phần dưới. Rơ ràng Mác đă đẩy sự đấu tranh giai
cấp lên ngôi đầu và ấn sự thi đua trí tuệ của con người xuống dưới một cách rất
chủ quan. Chính sai lầm chết người này của ông đă gây ra biết bao đau thương,
tang tóc cho nhân loại ở thế kỷ sau.
Nói tóm lại từ một bài toán
nhỏ, lại cho kết quả sai, Mác đă dùng nó làm cơ sở để xây dựng nên cả một học
thuyết được cho là khoa học, nhằm giải quyết một bài toán xă hội cực lớn. Chẳng
những cho một nước mà cho toàn thế giới, chẳng những cho một giai đoạn mà cho
măi măi về sau, v.v ... Nếu chỉ xét riêng về mặt phương pháp luận không thôi,
cũng thấy là Mác đă rất sai lầm từ chính tính "khái quát hóa" cao này rồi.
C̣n xét về nội dung th́
ngày nay chỉ cần một người có tŕnh độ quan sát và nghiên cứu trung b́nh cũng có
khả năng chứng minh được là Mác sai. (dù góc độ tiếp cận và cách nh́n nhận của
mỗi người khác nhau là khác nhau.). Đơn giản là v́: khác với một bài báo chỉ là
sự tập hợp những quan điểm của người viết th́ nó có thể đúng ở chỗ này, sai ở
chỗ kia (trừ của các ngành khoa học tự nhiên). Nhưng một khi đă gọi là học
thuyết khoa học rồi, mà những điểm sai của nó lại toàn là những "ḥn đá tảng"
cả, th́ nhất định nó phải là một học thuyết sai. Càng sống ở các nước phát
triển, càng có điều kiện để nhận biết nó. Điều này giải thích v́ sao tất cả các
nước có nền kinh tế phát triển, không có nước nào đi vào con đường XHCN, mặc dù
họ có phong trào cộng sản sớm nhất. V́ sao bốn nước XHCN c̣n sót lại đến nay đều
là những nước có điểm xuất phát thấp nhất của hệ thống, và v́ sao số lượng các
nước trong phe chỉ dừng lại ở con số 13. Có chăng là thêm một vài nước nghèo nữa
ở châu Phi, Mỹ la tinh, Trung Á, v.v... nhưng tên tuổi cũng thoắt ẩn, thoắt hiện
rất khó xác định!
Nói như vậy không có nghĩa
là hễ ai chứng minh được Mác sai là thông minh hơn Mác, mà chính là bởi thời đại
thông minh đă dạy họ. Theo tôi Mác vẫn xứng đáng là một trong những bộ óc xuất
sắc của nhân loại trong 1000 năm qua, như một cuộc b́nh chọn gần đây đă xác
định. Xong cũng như những nhà tư tưởng lớn khác, ông vừa vượt lên trên thời đại
của ḿnh, nhưng cũng bị chính thời đại ấy quy định.
Ngay khi Mác c̣n sống, đă
có nhiều người nhận ra những điểm sai trong học thuyết của ông, kể cả Ăng-Ghen
người bạn và người đồng chí thân thiết nhất của Mác, mất sau ông 12 năm. Biểu
hiện rơ nhất của việc nhận thức lại này là: chỉ 6 năm sau khi Mác mất th́ Quốc
Tế Vô Sản II đă được thành lập ở Paris - Pháp (1889), với chủ trương mềm hơn :
giai cấp vô sản sẽ giành chính quyền bằng con đường đấu tranh nghị trường, bất
bạo động. Đảng xă hội Pháp, tiền thân của ĐCS Pháp sau này đă theo Quốc Tế II.
Năm 1919 Lê Nin đă thành lập ra Quốc Tế III và "phục hồi" lại con đường dùng bạo
lực để giành chính quyền cho phong trào cộng sản quốc tế.
Từ những tŕnh bày trên ta
rút ra kết luận: cơ sở h́nh thành nên học thuyết của Mác là sai, v́ vậy cơ sở
h́nh thành nên hệ thống XHCN trong thế kỷ 20 vừa qua cũng là sai từ gốc. Thời
Mác đă sai, thời nay lại càng sai.
1.2 - Sự tan
ră :
Sau chiến tranh thế giới
thứ II năm 1945 là thời điểm mở đầu cho cuộc chiến tranh lạnh kéo dài gần nửa
thế kỷ (1945 - 1991) giữa hai phe XHCN và TBCN, một phe do Liên Xô, phe c̣n lại
do Mỹ đứng đầu. (thật ra cụm từ "phe Tư bản chủ nghĩa" cũng không hẳn là chính
xác, v́ "Chủ nghĩa tư bản" th́ nhân loại đă có từ ngàn đời nay, chứ không phải
mới có từ khi nền văn minh công nghiệp xuất hiện. Nhưng khác với CNCS là có tác
giả cụ thể, c̣n nó th́ không. Hay nói đúng hơn, toàn bộ nhân loại từ xưa đến nay
đều là "tác giả" của nó. (xem tuyển tập Hà Sỹ Phu - website
http://members.aol.com/vietnamgo/hasphu.htm)
Xen kẽ trong thời kỳ trên
cũng có những cuộc chiến tranh nóng cục bộ giữa hai phe như : chiến tranh Triều
Tiên, chiến tranh Việt Nam. Nhưng trong 3 năm 1989 - 1991, khi các nước Đông Âu
và Liên Xô tan ră th́ giữa hai phe lại không hề có một cuộc chiến tranh nóng
nào. Có người cho rằng chính v́ những cuộc chạy đua vũ trang, chạy đua không
gian,… kéo dài với quy mô lớn đă làm cho nền kinh tế của nhiều nước XHCN, nhất
là của Liên Xô bị " hụt hơi" dẫn tới sự sụp đổ. Nhưng theo tôi nếu đă gọi là
"cùng chạy đua" rồi th́ "hơi" bên nào mà chẳng "hụt"!
Những nguyên nhân th́ có
nhiều, kể cả sự "hụt hơi" trên, ngoài ra c̣n là vai tṛ quan trọng, có khi lại
rất tế nhị của những nhân vật lớn lúc ấy như: đức giáo hoàng Giôn-Pôn II (John
Paul II), các cựu tổng thống Mỹ R.Ri-Gân (Ronald Reagan), Gioóc-Bút (George
Bush), cựu thủ tướng Tây Đức Hen-mút-Côn (Helmut Kohl), cựu tổng bí thư ĐCS Liên
Xô M.Goóc-ba-chốp (Mikhail Gorbachev) * (những dấu * trong bài viết này tôi xin
được trở lại kỹ hơn trong những lần tới, khi có điều kiện). Nhưng cái chính vẫn
phải là phải đi t́m những yếu kém từ bên trong của hệ thống này.
Theo tôi có ba nguyên nhân
lớn sau :
a - Do triệt để sử dụng
phương pháp bạo lực đă làm phân hóa sâu sắc và toàn diện trong nội bộ từng nước,
và giữa các nước trong toàn hệ thống.
b - Do chủ quan và phiến
diện trong cách nh́n nhận về con người, nên Mác đă đưa ra luận điểm: hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân là hệ tư tưởng tiên tiến nhất trong xă hội, và Đảng cộng
sản là lực lượng chính trị duy nhất lănh đạo đất nước.
c - Do không tôn trọng các
quy luật khách quan.
Cụ thể là:
a - Do triệt để sử dụng
phương pháp bạo lực:
Hầu hết các lănh tụ cộng
sản đều có những phát biểu nhằm quán triệt sâu sắc điều này. Chẳng hạn như :
Với Mác : Bạo lực là bà
đỡ của mọi cuộc cách mạng.
Với Ăng-Ghen : Không có
vũ khí phê phán nào có thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí .
Với Lênin : Kẻ nào chỉ
thừa nhận có đấu tranh giai cấp không thôi, th́ kẻ đó vẫn chưa phải là người Mác
- xít. Chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận
chuyên chính vô sản th́ mới là người Mác - xít.
Với Mao Trạch Đông :
Quyền lực chính trị nằm ở trên đầu ṇng súng. hay: Súng đạn đẻ ra chính
quyền. v.v…
Thật ra sai lầm trên lúc
đầu là do Mác, nhưng sau đó là do Lê Nin và những người cộng sản nắm quyền tiếp
theo đă phạm, khi họ vấp phải những khó khăn trong thực tiễn, không như Mác h́nh
dung ban đầu. V́ vậy nó đă được kéo dài lê thê từ trong chiến tranh sang luôn cả
thời kỳ "Xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH" ở tất cả các nước trong
phe. Nh́n vào thực tiễn ta thấy rất rơ điều này :
a.1 - Sự phân hóa trong
nội bộ từng nước :
Từ năm 1917 đến nay, chỉ
tính riêng giai đoạn xây dựng ḥa b́nh thôi cũng đă đầy máu và nước mắt rồi. Đầu
tiên là ở Liên Xô, sau lan ra toàn hệ thống. (xem Báo Cáo Mật Của N.Khrushchev
Về Tội Ác Của Stalin - N.Khơ-rút-xốp (1879 - 1953) - Website www.lmvntd.org, mục
tài liệu / nhân vật.). Hàng chục, hàng trăm triệu người đă bị bắt bớ, đánh đập,
hành hạ,... nhiều người trong số họ đă bị chết do đói, rét, khát, bệnh tật hoặc
bị giết v́ các tội danh như: phản cách mạng, chống đảng, chống CNXH, chống chính
quyền nhân dân,... mà việc quy kết cho nhân dân những tội danh trên là rất tùy
tiện và vô tội vạ.
Nếu ai đó đă xem bộ phim
"Để sống" (To Live) của đạo diễn nổi tiếng Trung Quốc Trương Nghệ Mưu, có nữ
diễn viên Củng Lợi đóng sẽ thấy : để tồn tại hay không tồn tại, người dân Trung
Quốc đă phải chịu đựng như thế nào trong suốt thời kỳ Mao Trạch Đông cầm quyền
(1949 - 1976). Sau này chính những người dân Trung Quốc đă tự hàn gắn cho nhau
những vết thương của quá khứ, chứ không phải là Mao Trạch Đông và những người
lănh đạo trong ĐCS Trung Quốc đă ủng hộ cuồng tín ông ta, mặc dù chính họ là
những người đă gây ra những tội ác đó. Họ cho đến nay vẫn ăn qụyt nhân dân Trung
Quốc những món nợ lớn đă vay từ những cuộc "Đại nhảy vọt", "Đại cách mạng văn
hóa", vụ "Quảng trường Thiên An Môn" năm 1989, v.v...
Ở Việt Nam cũng không phải
là một trường hợp ngoại lệ: các chiến dịch lớn nhỏ như Cải tạo hóa, Tập đoàn
hóa, Hợp tác hóa, Quốc hữu hóa, Công tư hợp doanh hóa,... chẳng những đă không
đoàn kết hóa được dân tộc, mà chỉ làm cho dân tộc phân hóa hơn. Nếu tính cả yếu
tố chiến tranh nữa th́ sự phân hóa này c̣n tăng lên nhiều lần. Nước mắt của nhân
dân hết chảy xuôi, rồi lại chảy ngược, nhưng không hề làm cho cái ác dừng tay.
Thế là sau bao nhiêu năm chiến tranh máu lửa, nhưng trên đất nước Việt Nam vẫn
chưa "hiền như xưa", súng gươm vẫn được giữ lại để dùng vào những công
việc khác với chống giặc ngoại xâm. Điều này th́ bất cứ người Việt Nam nào cũng
biết. Nó như những thanh gươm treo lơ lửng trên đầu họ, vô h́nh đấy nhưng cũng
rất hữu h́nh đấy. Có lẽ nhiều người thuộc trường phái sùng bái bạo lực ở Việt
Nam, cứ thắc mắc hoài là tại sao ngày xưa vua Lê Lợi lại hoàn kiếm sớm thế?
Thắng quân Minh rồi th́ cứ giữ nó lại mà sài cho ... quân ḿnh ! (chắc là hồi ấy
ông chưa được học tập và quán triệt Chủ nghĩa Mác - Lê Nin!). Trên đây là sự
phân hóa trong nội bộ từng nước, nhưng giữa các nước trong hệ thống cũng có sự
phân hóa nghiêm trọng.
a.2 - Sự phân hóa giữa
các nước trong hệ thống:
Chỉ một thời gian ngắn sau
khi ra nhập vào hệ thống, th́ hầu hết các nước Đông Âu đă muốn thoát ra khỏi sự
khống chế của Liên Xô, v́ các lư do sau :
- Phần lớn đều có điểm xuất
phát trước chiến tranh cao hơn Liên Xô.
- Đă biết được những tội ác của
Stalin đối với nhân dân Liên Xô trước đó, bản thân họï cũng đă từng là nạn
nhân.
- Muốn nhận sự viện trợ của Mỹ theo kế hoạch Marshall giúp các nước
khôi phục lại nền kinh tế sau chiến tranh.
- Các lư do khác biệt về văn hóa,
tôn giáo, sắc tộc, ...
Những sự kiện diễn ra ở
Tiệp Khắc năm 1947, Đông Đức và Tiệp Khắc năm 1953, Hunggaria và Ba lan năm
1956,... đă chứng minh điều này. Nhưng điển h́nh nhất là sự kiện "Mùa xuân
Praha" diễn ra tại Tiệp Khắc năm 1968 : Hàng trăm ngh́n quân cùng hàng ngàn máy
bay, xe tăng, đại bác,...thuộc khối quân sự Vác-Sa-Va (Warszawa) do Liên Xô đứng
đầu (giai đoạn do L.Brezhnev làm tổng bí thư ), đă tiến vào nước này nhằm "tiễu
trừ bọn phản cách mạng,tay sai của đế quốc Mỹ!", sau đó bắt đi nhiều UVTƯ đảng,
bộ trưởng giải về Mátxcơva (Moscow). Bản thân tổng bí thư A.Dubcek và thủ tướng
Tiệp lúc bấy giờ là Cernik cũng bị triệu sang Mátxcơva. Để rồi sau đó một đoàn
đại biểu do chủ tịch nước Tiệp là Svoboda dẫn đầu đă bị ép phải kư một văn bản
tại Mátxcơva, với hai thỏa thuận quan trọng :
- Ngưng ngay công cuộc cải
tổ, mà thực chất là muốn xây dựng một mô h́nh CNXH nhân bản hơn, nhằm thay thế
cho mô h́nh CNXH kiểu trại lính có từ thời Stalin.
- Chấp nhận một lực lượng
quân sự Liên Xô gồm 75,000 quân "tạm" đóng tại đây. Lực lượng này ở lại Tiệp 23
năm, tới tháng 5/1991 trước khi Liên Xô tan ră (12/1991) mới rút về.
Kể từ đó lư tưởng cộng sản
hầu như đă mất hẳn trong ḷng nhân dân Tiệp Khắc nói chung và những người cộng
sản Tiệp chân chính nói riêng, họ coi đất nước họ đă bị quân đội nước ngoài
chiếm đóng trái phép. Chính họ - những người cộng sản ấy, đă góp phần rất lớn
cùng nhân dân giành được thắng lợi trong "Cuộc cách mạng nhung" vào 10 ngày cuối
tháng 11/1989. Những cuộc biểu t́nh quy tụ nhiều chục ngàn người đă liên tiếp nổ
ra tại khắp nơi trên đất Tiệp sau sự kiện trên. Ngay tại quảng trường chính của
thủ đô Praha đă có hai sinh viên tự thiêu vào tháng 1 năm 1969, trong lúc đoàn
người đang biểu t́nh. Và sự hy sinh của họ đă không uổng phí, bởi v́ có "Mùa
xuân Praha" th́ 9 năm sau mới có "Hiến chương 77" của hàng trăm nhà trí thức và
những đảng viên Cộng sản Tiệp tiến bộ. Nó như một Bản Tuyên Ngôn chung đ̣i dân
chủ, làm rung chuyển cả khối XHCN. Để rồi từ đó mới có thắng lợi của "Cuộc cách
mạng nhung" 12 năm sau.
Rơ ràng giải pháp "cộng
sản" cũng đă không giải quyết được vấn đề "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại
!" như Mác kêu gọi. Mối bất ḥa giữa hai nước đàn anh Liên Xô và Trung Quốc là
rất sâu sắc, không thể hàn gắn được, và cũng đă có những cuộc xung đột vũ trang
diễn ra tại biên giới Trung - Xô. Nó lớn tới mức mà không biết vô t́nh hay cố ư,
CT Hồ Chí Minh trong di chúc của ḿnh đă vội chia chủ nghĩa cộng sản ra thành
hai : chủ nghĩa Mác - Lê Nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản ! Giải pháp ấy cũng
không làm tan đi được đầu óc bá quyền nước lớn, muốn thôn tính nước nhỏ bằng bạo
lực, có từ ngàn năm của các thế lực cầm quyền phương Bắc đối với dân tộc Việt
Nam.
Có ai ngờ rằng sau 30 năm
với hai cuộc chiến tranh, th́ dân tộc ta lại phải bước tiếp vào hai cuộc chiến
tranh nữa, ở biên giới Tây - Nam và biên giới phía Bắc, mà nguyên nhân sâu xa
đều do chính quyền Bắc Kinh gây ra. Máu xương của hàng trăm ngàn những người
lính trẻ, những người dân Việt Nam vô tội lại phải đổ xuống. Mặc dầu họ - những
người nay đă khoác áo cộng sản, từng nhiều lần tuyên bố: "T́nh đoàn kết gắn bó
giữa hai dân tộc là như môi với răng, môi hở th́ răng lạnh". (có lẽ nên là như
môi với… lưng th́ tốt hơn!). V́ điều kiện địa lư, chúng ta không có cách lựa
chọn nào khác hơn. Chúng ta luôn mong muốn cùng xây dựng mối quan hệ tốt đẹp
giữa hai nước, nhất là với nhân dân Trung Quốc - những người cũng đă chịu quá
nhiều thương đau. Nhưng với lịch sử đă qua, với những ǵ vẫn đang tiếp tục cho
chúng ta thấy bản chất bá quyền nước lớn của đầu óc đại Hán, là không hề thay
đổi trong các giới cầm quyền ở Trung Quốc. Chẳng những là đối với Việt Nam, mà
c̣n đối với các nước khác trong khu vực. Đây là khó khăn nhưng cũng là thuận lợi
để Việt Nam có thể thiết lập được những mối quan hệ bền vững với các nước này.
Từ đó sẽ tạo ra những đối trọng đủ mạnh đối phó với họ. Chính sợi dây ràng buộc
"cùng ư thức hệ" hiện nay mới là nguy hiểm nhất, nó làm cho thế giới và các nước
trong khu vực nghi ngại chúng ta. Sợi dây ấy có thể đứt bất cứ lúc nào như nó đă
từng bị đứt, và bên chịu thiệt tḥi vẫn là dân tộc Việt Nam. (một khi đă biết
được dă tâm muốn "đánh tráo nỏ thần" rồi mà vẫn cho phép họ được "ở rể", th́
những kẻ có tội với dân tộc chính là những "An Dương Vương" thời nay !)
b - Do chủ quan và phiến
diện trong cách nh́n nhận về con người nên Mác đă đưa ra luận điểm : hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân là hệ tư tưởng tiên tiến nhất trong xă hội, và Đảng cộng
sản là lực lượng chính trị duy nhất lănh đạo đất nước.
Từ khi nền văn minh công
nghiệp xuất hiện, th́ bất cứ xă hội nào chịu ảnh hưởng của nó cũng có nhiều giai
tầng khác nhau như đă liệt kê ở trên. Ta giả sử ứng với mỗi giai tầng ấy có một
hệ tư tưởng, rồi lại có một ban giám khảo chấm điểm khách quan, th́ chắc ǵ hệ
tư tưởng của giai cấp công nhân đă đạt trên mức trung b́nh? Thế mà Mác cũng lại
đưa nó lên vị trí hàng đầu, với ư định không hề giấu giếm là sẽ tiến tới chi
phối, rồi triệt tiêu dần các hệ tư tưởng c̣n lại "bằng con đường tự nguyện"!
Trong thực tế th́ sự chống đối này là rất gay gắt. Có những người suốt đời đi
"tiễu trừ bọn phản cách mạng" nhưng "tiễu" măi mà bọn "phản cách mạng" kia không
"trừ" đi, mà lại càng cộng thêm! Mác thật mâu thuẫn khi một mặt, ông kêu gọi mọi
người hăy cùng nhau xây dựng một xă hội công bằng và b́nh đẳng. Nhưng mặt khác,
ông lại bày ra chuyện "mâm trên - mâm dưới" ngay từ đầu như vậy.
Lư thuyết th́ đă là như
thế, thực tế c̣n tệ hại hơn nhiều : đó là sự thống trị của một thiểu số cầm
quyền trong ĐCS lên toàn bộ xă hội, kể cả các đảng viên thường cùng toàn bộ khối
"liên minh công - nông", mà lúc này hầu hết đều đă thuộc giai cấp bị trị. Mác
đặt trọn niềm tin của ông vào các ĐCS, v́ ông cho rằng đó là "bộ phận ưu tú nhất
của một giai cấp tiên tiến nhất trong xă hội "! Cứ cho là như vậy đi, nhưng thử
hỏi có cái ǵ làm cho người ta đam mê bằng thứ quyền lực được tập trung ở mức độ
cao, được kéo dài không kỳ hạn và c̣n là duy nhất ?
Thực tế phe XHCN đă chứng
minh rằng: không phải như Mác nói "Tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ nhân
dân", mà chính quyền lực mới là "thuốc phiện" của nhiều người cộng sản cầm
quyền. Có những người sau khi đă rời chức vụ rồi, nhưng cứ ra ngẩn vào ngơ, tinh
thần bất an v́ vẫn c̣n muốn "phục vụ cách mạng đến hơi thở cuối cùng"! Để rồi đă
có người đă thấy vậy mà đưa ra nhận xét: "Cái đít con người ta cóù trí nhớ,
nó nhớ cái ghế!".
Sự đam mê ấy lại càng được
cộng hưởng thêm khi nó được gắn với tiền, lúc này cũng lại được đem tập trung
lại. Nếu như ăn, uống, ngủ, nghỉ người ta c̣n thấy có dấu hiệu của sự băo ḥa
th́ nỗi đam mê quyền, tiền là không hề có dấu hiệu nào. Giả sử lúc đầu con
người xă hội trong anh có thắng thế, th́ cũng chỉ một thời gian sau nó cũng
sẽ bị con người cá nhân trong anh nuốt chửng. Mọi cố gắng nhằm "chống chủ
nghĩa cá nhân" trên quy mô toàn xă hội đều thất bại, trừ khi phần hồn ĺa khỏi
phần xác! Đó là quy luật muôn đời, không trừ một đảng phái, giai cấp, tôn giáo
hay dân tộc nào. Lịch sử nhân loại đă có rất nhiều ví dụ về nó.
V́ vậy bài toán lợi - quyền
mà Mác hy vọng có thể giải quyết được qua giải pháp "cộng sản" cũng hoàn toàn
chủ quan và phiến diện. Nó đă bị chính những người cộng sản cầm quyền phá vỡ:
một khi mà đá bóng là anh, thổi c̣i cũng lại là anh, th́ nhân dân chỉ c̣n có
"mỗi" một việc là cứ lầm lũi làm ra cờ, cúp, giải thưởng để anh luôn luôn được
đứng trên bục cao nhất mà thôi. Thử hỏi những cô Tấm ngày nay có c̣n động lực để
"vớt tép" nữa hay không, khi mà tép trong giỏ của ḿnh đă bị kẻ khác lừa trút
hết? Những người chăm chỉ, dễ tin người và lương thiện th́ chỉ c̣n "một con cá
Bống", c̣n những kẻ lười biếng, giảo hoạt và vô lương tâm th́ lại được thưởng
"yếm đào".
Người ta thấy rơ sự bất
công lớn giữa những người lao động trực tiếp làm ra của cải, vật chất cho xă
hội, với hầu hết các quan chức lớn nhỏ trong các ĐCS. Cái kiểu "nấu cháo bằng
ŕu" này đă diễn ra thường trực, lâu dài và trên quy mô lớn trong toàn phe XHCN.
Lê Nin đă từng có nhận xét : " Ngân hàng trong nền kinh tế TBCN là một tổ
chức ăn bám b́nh phương". Nhưng ở các nước XHCN, thực tế đă cho thấy rằng:
Có nhiều cá nhân, tổ chức mà mức độ ăn bám có số lũy thừa bậc cao hơn nhiều lần.
Vấn đề là phải tạo ra một cơ chế kiểm tra, kiểm soát đầy uy lực của toàn xă hội
lên các thế lực cầm quyền, chứ không phải là cứ "chốt" vấn đề từ trên như vậy,
rồi đặt cho nhân dân một niềm tin tù mù rằng: trên ấy toàn là những "v́ sao" th́
ắt nó sẽ tỏa sáng! Theo tôi có lẽ Mác cũng có tính cả tin như có lần ông tâm sự
với con gái của ḿnh rằng đấy là đức tính mà ông dễ tha thứ nhất.
c - Do không tôn trọng
các quy luật khách quan:
Ví dụ như trong kinh tế là
gần như phủ nhận hoàn toàn quy luật giá trị, coi nhẹ vai tṛ của hàng hóa, tiền
tệ. T́m mọi cách, kể cả bằng bạo lực thường trực để thu hẹp những cơ sở h́nh
thành nên nền kinh tế thị trường. V́ cho rằng chúng sẽ dẫn tới sự cạnh tranh, vô
chính phủ, cá lớn nuốt cá bé và cuối cùng là sự khủng hoảng xă hội. Cơ chế chỉ
huy tập trung ở các nước trong phe XHCN rất có lợi thế trong điều kiện chiến
tranh, v́ nó cho phép huy động tới mức tối đa mọi nguồn lực cho cuộc chiến.
Nhưng chiến tranh là cái bất b́nh thường của cuộc sống, nó không phải là cuộc
sống theo đúng nghĩa của nó. C̣n trong điều kiện ḥa b́nh th́ vấn đề lại khác
hẳn, ở đó đ̣i hỏi những nỗ lực sáng tạo bền bỉ của từng cá nhân, nhằm làm ra
những sản phẩm khác nhau, phục vụ cho những nhu cầu cũng rất khác nhau của xă
hội. Chứ không phải là mọi người cùng đi về một hướng, cùng thực hiện một mục
đích, v.v...
V́ vậy những lợi thế của cơ
chế này trong chiến tranh lại là những trở lực lớn trong xây dựng ḥa b́nh. Biểu
hiện cụ thể của nó là lối suy nghĩ cứng nhắc, một chiều dẫn tới cách làm việc
độc đoán, duy ư chí và bất chấp quy luật. Hậu quả là những sản phẩm được làm ra
thường là thiếu tính cạnh tranh trên thị trường thế giới, ngày càng mang tính
toàn cầu hóa cao. Trong nền kinh tế XHCN, điều mà các nhà sản xuất quan tâm hơn
cả là làm sao hoàn thành được kế hoạch nhà nước giao, chứ không phải là tính
hiệu quả. V́ vậy nó cũng không cần để ư đến thị hiếu, sức mua của người tiêu
dùng. Ví dụ ở Liên Xô trước đây người ta thường đúc luôn giá bán lẻ vào nhiều
sản phẩm, chẳng hạn một bàn là giá 7 rúp (Rouble: đơn vị tiền tệ của Liên Xô),
hay một quạt tai voi giá 14 rúp được bán ra vào giữa thập niên 60 th́ đến giữa
thập niên 70 nó vẫn giữ nguyên giá bán như vậy. (điều này th́ nhiều anh chị em
ta ở Liên Xô nắm khá chắc!).
Về mặt h́nh thức ta thấy
được tính "ổn định" của giá cả, nhưng về mặt bản chất th́ đó là sự vi phạm
nghiêm trọng các quy luật kinh tế khách quan. T́nh h́nh cũng tương tự ở các nước
khác trong phe, như ở Trung Quốc với chiếc xe đạp Phượng Hoàng, ở Việt Nam với
chiếc xe đạp Thống Nhất, với giá gạo mậu dịch bốn hào một cân, v.v ... được giữ
vững nhiều chục năm *.
Ở trong các lĩnh vực khác
cũng có một t́nh h́nh tương tự, ví dụ trong lĩnh vực văn hóa với những sản phẩm
tinh thần được làm ra thường mang tính rập khuôn, giáo điều, lên gân và xa lạ
với đời sống con người. Nó cũng làm "lưỡi gỗ hóa", thậm chí là trơ chẽn hóa
trong hầu hết những cuộc trả lời phỏng vấn của các lănh tụ cộng sản, những người
phát ngôn, ... đây là căn bệnh chung và có tính "nghề truyền nghề"! Tất cả đă
làm "đồng phục" hóa và "Gà công nghiệp" hóa hầu hết mọi thành viên trong xă hội,
mọi người ăn, mặc, ở, đi lại, ... giống nhau, thậm chí cách nói năng, suy nghĩ
cũng ít khác nhau. V́ vậy nó đă bóp chết rất nhiều khả năng sáng tạo, lối suy
nghĩ độc lập,... của những con người sống trong các xă hội XHCN. Mọi sự đều mang
dáng vẻ nhợt nhạt, thiếu sức sống. Để rồi khi mở cửa ra với thế giới bên ngoài
th́ thường bị hụt hẫng, lúng túng như những chú Gà công nghiệp dưới ánh nắng
chói chang của mặt trời. Tất cả đều cam chịu một mức sống thấp đều nhau. Giả sử
có ai đó muốn "nhô lên" th́ cũng bị cơ chế ấy mau chóng kéo xuống. Trừ một lớp
người đặc biệt đă tạo nó.
Toàn hệ thống c̣n có một
đặc điểm nữa là: hầu hết đều ra đời sau chiến tranh hay nội chiến, v́ vậy có
những con người có công trong các cuộc chiến ấy. Xă hội phong kiến trước đây
phân biệt rất rơ giữa chức và tước, nhưng nay th́ tất cả đă bị lẫn lộn: người ta
thường thưởng chức cho nhau thay v́ ban tước, mặc dù ngay cả điều này cũng có
những bất công lớn. Hậu quả là thước đo giá trị về con người bị biến dạng, cũng
như trong kinh tế quy luật giá trị bị bóp méo. Sự" truyền ngôi" cho nhau những
tưởng là đă mất, nhưng nó đă không mất đi mà c̣n diễn ra nhuộm nhoạm, phổ biến
hơn theo những tính toán cá nhân của những người nắm quyền lực. V́ vậy trong đa
số trường hợp nó đă không chọn được những người tốt nhất cho công việc chung. Có
khi không phải là 9 bỏ làm 10 mà 3 - 4, thậm chí chẳng có giá trị ǵ cũng "bỏ
làm 10"! Kể cả chức vụ cao nhất của các nước này là chức tổng bí thư ĐCS. Điều
đó đă tạo ra những cuộc chạy đua mà "năng lực" của các ứng cử viên được "đo" ở
cổng sau chứ không phải cổng trước. Chúng càng làm cho những con người chân
chính nản ḷng, hệ thống do vậy gần như đă mất hết động lực.
Biểu hiện trong tâm lư xă
hội là: sau những hăm hở của một niềm tin trong sáng buổi ban đầu, th́ nay là sự
thất vọng, chán nản, buông xuôi. Nó gây ảnh hưởng xấu, có tính dây chuyền đến
mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xă hội. Chẳng hạn là t́nh trạng
nhà nước th́ "giả vờ" trả lương cho công nhân viên, rồi họ cũng lại "giả vờ" làm
việc lại cho nhà nước. Năng suất và chất lượng lao động càng ngày càng tụt dốc
thảm hại, trong khi vấn đề năng suất lao động lại là vấn đề quan trọng nhất, chủ
yếu nhất. Chính nó, theo Lênin sẽ quyết định sự thành bại của phương thức sản
xuất này so với phương thức sản xuất kia.
Hàng hóa và các loại dịch
vụ ngày càng đơn điệu và khan hiếm, xă hội tẻ ngắt và buồn chán. Từ quy luật
"Năng suất lao động không ngừng tăng lên dưới CNXH" bị phá vỡ đă kéo theo hàng
loạt "các quy luật riêng có" khác của CNXH như : "Quy luật phát triển có kế
hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân", "Quy luật đời sống vật chất, văn hóa và
tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao" (c̣n được gọi là "Quy luật cơ
bản của CNXH"), ... đều đă bị gẫy đổ. Cùng với sự thoái hóa nghiêm trọng của hệ
thống chính trị, đă dẫn đến sự tan ră của toàn hệ thống XHCN như nó đă diễn ra.
Lê Nin đă từng viết:" Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo
vệ". Các nước XHCN đă tự bảo vệ được ḿnh trong các cuộc chiến tranh nóng,
nhưng đă không làm được điều đó trong xây dựng ḥa b́nh, và đă thua trong cuộc
chiến tranh lạnh vừa qua.
Từ những tŕnh bày trên ta
rút ra kết luận : hệ thống XHCN trong thế kỷ 20 đă tự sụp đổ, v́ nó bắt nguồn từ
một học thuyết sai lầm, dẫn đến sự h́nh thành nên một cơ chế làm triệt tiêu hầu
hết mọi động lực cho sự phát triển xă hội. Nó đă vĩnh viễn ra đi chứ không phải
tạm thoái trào, để rồi một ngày nào đó sẽ phục hồi và quay trở lại như có những
người đă từng phát biểu hoặc hy vọng. (tất nhiên có người làm vậy chỉ là để giả
vờ trước nhân dân mà thôi). Cuộc "đại thực nghiệm" cho học thuyết của Mác ấy đă
đại thất bại, sau 74 năm tồn tại trên nhiều vùng đất rộng lớn và đông dân cư của
thế giới. Nó là một tai họa lớn cho nhân loại nói chung và nhất là cho nhân dân
các nước XHCN nói riêng.
Trong suốt một thập niên
qua ở các nước Đông Âu và các nước cộng ḥa cũ thuộc Liên Xô đă diễn ra nhiều
cuộc bầu cử tự do. Có một t́nh h́nh là: bất cứ một cá nhân, tổ chức hay đảng
phái nào dù đă đổi tên gọi, nhưng nếu có ư định phục hồi lại Chủ nghĩa xă hội
th́ đều bị thất bại trước những lá phiếu của nhân dân. Cuộc bầu cử tổng thống
Nga vào tháng 3/2000 vừa qua đă chứng minh thêm cho điều này. Có nhiều người vốn
là những đảng viên cộng sản cũ đă thắng cử, điều đó cũng là b́nh thường. Nhưng
nguyên nhân thắng cử là bởi họ đă thực sự là đại diện cho tiến tŕnh dân chủ
mới, và cử tri bầu họ là v́ lẽ đó, chứ không phải là để quay về với con đường
trước kia.
Những hỗn loạn, xung đột
của nước Nga hậu cộng sản gần 10 năm qua là có thật, nhưng phải thấy rằng chúng
là biểu hiện của những mâu thuẫn sâu xa đă có từ lâu trong quá khứ, nay mới có
điều kiện để bung ra. Trước đây chúng đă bị dập đi bởi sự bưng bít thông tin và
bởi bạo lực của nền chuyên chính vô sản, làm cho người ngoài khó thấy được. Nó
chỉ chứng tỏ rằng: hễ càng ủ những mâu thuẫn ấy càng lâu th́ khi đủ điều kiện
phát nổ, chúng sẽ càng nổ lớn. Và một tổng thống Nga Bôrít-Enxin (Boris Yeltsin)
nát rượu, tính khí thất thường. không phải là đại diện xứng đáng cho một nước
Nga mới.
Cũng cần nhắc lại là so với
các nước Đông Âu th́ thời gian Liên Xô xây dựng Chủ Nghĩa Xă Hội nhiều hơn những
nước này đúng 30 năm, tức xây dựng trước 28 năm (1917/1945) và thêm 2 năm nữa
(1989/1991). Nếu ai chỉ chú tâm nhấn mạnh đến những tiêu cực mà lại quên đi
những bước chuyển ḿnh thành công khác của nước Nga, các nước cộng ḥa thuộc
Liên Xô cũ và của các nước Đông Âu là thiếu sự khách quan. Cách nh́n ấy là rất
phiến diện, thậm chí c̣n là sai nếu lại đưa nó ra như một con ngoáo ộp đe doạ
người dân, nhằm mục đích khước từ đổi mới chính trị. Bằng cách đó họ đă đi ngược
lại với trào lưu dân chủ mới.
Một số nhận xét thêm:
Anh Hà Sỹ Phu - tiến sỹ
sinh học hiện đang ở tại Đà Lạt, trong bài viết Chia Tay Ư Thức Hệ có viết
"lư thuyết của Mác như một cô gái cực đẹp nhưng lẩn thẩn "! Tôi chỉ xin
góp thêm một ư: cô gái ấy đă bắt đầu bước vào đời sống nhân loại từ năm 1917, và
nay th́ phải cộng thêm tuổi cho cô gái lẩn thẩn này ! Mác đă từ bỏ tầng lớp trên
của ḿnh để đứng hẳn về phía giai cấp cần lao. Ôâng đă dành trọn sự nghiệp của
ḿnh để nghiên cứu và phát hiện ra nhiều căn bệnh trong ḷng XHTB, giúp nhân
loại t́m cách sửa chữa và điều chỉnh nó. Đó là đóng góp rất lớn của ông. Nhưng
nếu ông dừng lại ở đấy mà không kêu gọi xóa hẳn cái cũ, xây dựng cái mới, với
xuất phát điểm là dùng bạo lực, th́ nhân loại đă không phải trả giá đắt như ở
thế kỷ 20 vừa qua. Thực tế nhân loại đă "chống cộng" là theo ư nghĩa này, chứ
không phải là trọn gói, kể cả tinh thần xă hội rất cao đẹp cùng những đóng góp
thật sự của Mác . V́ nếu là "trọn gói" tất nhiên sẽ gây phân hóa, để rồi rất dễ
lâm vào t́nh trạng của những người cứ xô đại vào cánh cửa đă mở sẵn. Họ vừa tự
gây thương tích cho ḿnh rất đáng tiếc, vừa làm đau đớn những người xung quanh.
Chủ nghĩa cộng sản có được
bao nhiêu năm th́ phong trào chống lại chủ nghĩa ấy cũng có được bấy nhiêu năm.
Chính sự thông minh, khôn khéo của nhân loại và của nhiều nhân vật lớn trên thế
giới, đă góp phần quyết định chiến thắng được phong trào cộng sản nói chung và
phe XHCN nói riêng, trong cuộc chiến tranh lạnh vừa qua. Chúng ta tin rằng nếu
c̣n sống đến hôm nay, th́ công việc đầu tiên mà Mác làm là xem xét lại toàn bộ
học thuyết của ḿnh. Bởi v́ ông là một nhà khoa học thật sự, và biết đâu nhân
loại sẽ được thấy một vị "Anh hùng chống Mác" lại chính là Mác cũng nên! Nhưng
tôi cũng lại nghĩ thêm: có khi ông t́m đến để xin lại đứa con tinh thần của
ḿnh, th́ ông lại bị chính những người đang khư khư giữ nó nhất quyết chống lại.
(nhiều khi chủ nhà lại c̣n dễ hơn là mấy ông gác cổng!).
Với một ông Mác viết những
Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản,Tư Bản Luận, … dưới ánh đèn điện, lại được sự trợ giúp
của truyền h́nh nhiều kênh, của mạng lưới thông tin toàn cầu (Internet), điện
thoại, fax, ... sẽ khác với một ông Mác ngồi viết nó dưới những ngọn nến. Một
ông Mác đi máy bay nhất định cũng không giống với một ông Mác đi xe lửa hay xe
ngựa! Tổng kết về CNCS, cựu tổng thống Ba Lan Lếch-Valêxa (Lech walesa) đă có
một câu nói lên sự thật phũ phàng, nhưng cũng thật chính xác: "Chủ nghĩa
cộng sản là con đường dài nhất để đi từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa tư
bản!".
1.3 - Sự phát
triển của xă hội loài người từ khi có chủ nghĩa Mác tới nay :
Trong thực tế xă hội loài
người đă vận động và phát triển hoàn toàn khác hẳn với những ǵ mà Mác đă dự
đoán: cách mạng vô sản đă không nổ ra trước tiên ở các nước Tư bản chủ nghĩa
phát triển nhất. (ông dự đoán là nước Đức :"Những người cộng sản chú ư nhiều
nhất đến nước Đức, v́ nước Đức hiện nay đang ở vào đêm trước của một cuộc cách
mạng vô sản ..." - trích Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản). Mà lại nổ ra ở nước Nga,
lúc ấy chỉ là một nước TBCN phát triển trung b́nh. Cái "mắt xích" ấy yếu nhất và
bị "đứt" là bởi chiến tranh và nội chiến, do nước Nga Sa Hoàng tham dự đă làm
cho nước Nga suy kiệt, nhân dân Nga, nhất là các tầng lớp công - nông - binh bất
măn đến cùng cực. Chính họ đă là lực lượng ṇng cốt cho cuộc Cách mạng tháng 10
Nga năm 1917 giành được thắng lợi. Nó tuyệt đối không phải là sự vận động và
phát triển của "Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và tŕnh độ
phát triển của lực lượng sản xuất" mà Mác đă chỉ ra.
Những trường hợp của bốn
nước XHCN c̣n sót đến ngày nay lại càng khẳng định thêm cho điều này. Chưa kể
đến Mông Cổ (Mongolia) mà đa số người dân vốn chỉ quen với đời sống du mục trên
thảo nguyên, th́ đă lấy đâu ra mâu thuẫn giữa "tính chất xă hội hóa ngày càng
cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản
xuất", vậy mà cũng nhảy được một lúc 2 - 3 bậc lên CNXH ! (Trung Quốc và Việt
Nam nhảy cóc một bậc là vẫn c̣n … ít!). Dự đoán trên đă sai, nhưng dự đoán sau
đây c̣n sai tệ hại hơn nữa: trong Tư Bản Luận - quyển I ông viết "Giờ tận số
của chế độ tư hữu TBCN đă điểm"!
- Trước và sau Mác nhân
loại đă ra sức t́m kiếm nhiều phương cách khác nhau để giải quyết bài toán lợi -
quyền. Kết quả là ngày càng có nhiều người vô sản hôm qua trở thành những người
hữu sản hôm nay bằng lao động chân chính của họ. Luật pháp cũng thay đổi để bảo
vệ và khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thị trường chứng khoán cũng phát
triển mạnh đă đẩy nhanh quá tŕnh "cổ đông hóa". (nước Úc hiện nay có khoảng 5
triệu cổ đông trên tổng số gần 20 triệu dân, chiếm hơn 25% dân số. Có 500,000
các doanh nghiệp gia đ́nh, chiếm 50% lực lượng lao động toàn xă hội. Trong một
cuộc nghiên cứu gần đây th́ nước Úc có 230,000 nhà triệu phú so với 75,000 cách
đây 7 năm,tức là trung b́nh cứ 80 người dân th́ có 1 triệu phú.) Nghĩa là họ vừa
là người làm thuê, lại vừa là người làm chủ hoặc tự làm chủ hoàn toàn. Từ đó cái
tâm lư đấu tranh một mất một c̣n kiểu "Được là được tất cả, mất chỉ mất gông
cùm xiềng xích !" hay "quyết phá sạch tan tành" đă ngày càng bị đẩy
lùi trong các xă hội văn minh. Nếu "đấu tranh này là trận cuối cùng"
(những lời trong bài Quốc Tế Ca ), th́ sau "trận cuối cùng" ấy họ sẽ mất
nhiều hơn là được . Nhiều bộ luật cũng đă ra đời để hạn chế t́nh trạng cạnh
tranh, vô chính phủ. Ví dụ là luật chống độc quyền: nếu công ty Microsoft hiện
nay của Mỹ mà không có luật trên hạn chế, th́ nó đă nuốt nhiều chú "cá bé" lắm
rồi. Và nhà tỷ phú Bill Gates cùng một số bạn hữu của ông là những ví dụ điển
h́nh, mà chỉ bằng tài năng và quyết tâm của họ đă trở thành những ông chủ lớn,
từ những vốn liếng rất nhỏ nhoi ban đầu.
- Hệ thống chính trị cũng
có những thay đổi về chất để chuyển từ nền Dân chủ tư sản cho một thiểu số sang
nền Dân chủ đa nguyên cho nhiều người. Ở đó xă hội nh́n nhận và tôn trọng những
khác biệt về tư tưởng, quan điểm chính trị, chủng tộc, tín ngưỡng, thành phần
xuất thân, ... nghĩa là mọi quyền của con người đều được pháp luật tôn trọng và
bảo vệ. Chỉ trừ ai hoặc nhóm người nào "khác biệt" đến mức đi tuyên truyền, cổ
vũ hoặc trực tiếp nhúng tay vào các hoạt động bạo lực, khủng bố, tự hủy, v.v…
Đặc biệt nhất là quyền tự
do ứng cử và bầu cử, qua đó người dân vừa bầu ra một chính phủ có kỳ hạn nắm
quyền. Đồng thời cũng bầu ra những lực lượng chính trị khác làm đối lập xây dựng
đủ mạnh, để kiểm soát mọi hoạt động của chính phủ đương quyền. Thời gian ở vị
trí đối lập chính là thời gian học việc của họ, và tất cả đều có thể bị thay thế
bằng những lực lượng chính trị mới, nếu họ nói mà không làm hoặc làm không được
việc. Họ sẽ không có nhiềư "cơ hội" để miệt mài làm ngụy biện và đạo đức giả với
cử tri - những người đóng thuế. Đồng thời giới truyền thông cũng có những quyền
lực thật sự để thực hiện các chức năng phản ánh, hướng dẫn, giám sát và dự báo
xă hội của họ một cách độc lập. Mặt khác c̣n là sự thăng bằng và chế ngự lẫn
nhau của ba cơ quan quyền lực : lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nó không cho
phép một cá nhân hay một đảng phái nào có quyền chi phối hoặc đứng hẳn lên trên
nó.
Tất nhiên ngay cả ở những
xă hội phát triển nhất th́ không phải mọi việc đều đă ổn thỏa. Vẫn c̣n có những
bất công, có khi là rất lớn. Nhưng đấy là xă hội được nhiều người dân chấp nhận,
và họ vẫn luôn ra sức phát hiện những điểm không ổn ấy, để t́m cách điều chỉnh
cho nó ngày một hoàn thiện hơn. C̣n ư tưởng xây dựng một xă hội mới hoàn toàn
công bằng và b́nh đẳng, th́ cả vềà lư luận và thực tiễn đều cho thấy rằng: chính
nó mới thực sự là không tưởng, để rồi đă sa vào thảm cảnh "đi nhờ con cáo này để
đuổi con cáo kia."! Mà con cáo mới này lại có nhiều móng vuốt hơn, răng cũng to
và khỏe hơn do đó cũng "vồ" được nhiều gà hơn !
2 - Hoàn cảnh mà CT Hồ
Chí Minh đă chọn con đường đi cho dân tộc Việt Nam.
(Chủ tịch Hồ Chí Minh
1890 - 1969)
Theo các văn kiện chính
thức của ĐCS Việt Nam, cũng như CT Hồ Chí Minh lúc sinh thời đă nhiều lần khẳng
định th́ con đường mà CT Hồ Chí Minh đă chọn cho dân tộc Việt Nam chính là con
đường của Lê Nin, tức con đường XHCN. Cơ sở h́nh thành của nó ra sao, đúng sai
thế nào th́ như đă biết. Ở đây chúng ta chỉ đi t́m hiểu xem hoàn cảnh nào đă dẫn
CT Hồ Chí Minh t́m đến với con đường ấy :
Paris năm 1920, lúc này
chàng trai 30 tuổi Nguyễn Ái Quốc tức CT Hồ Chí Minh sau này đă là thường trú
nhân ở đây được 3 năm. Anh cũng mới ra nhập đảng xă hội Pháp được 1 năm. (CT Hồ
Chí Minh sinh sống ở Pháp 6 năm từ 1917 - 1923).
Liên tiếp trong hai ngày 16
và 17/7 tờ Nhân đạo (L’humanité) cơ quan ngôn luận của đảng xă hội Pháp đăng bài
viết nhan đề: "Đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lê Nin, đây
là một bài viết 8 trang và như sau này CT Hồ Chí Minh kể lại đại ư : "Trước
đó tôi chưa hề đọc một cuốn sách nào của Lê Nin viết, nó làm tôi cảm động, phấn
khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên, ngồi một ḿnh
trong pḥng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: hỡi đồng
bào bị đọa đày đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta! Đây là con đường giải
phóng dân tộc chúng ta! ... Và từ đó tôi đă có một sự lựa chọn: tán thành Quốc
Tế III và hoàn toàn tin theo Lê Nin, nhất quyết đi theo ngọn đuốc của Lê Nin vĩ
đại để soi sáng đường cho cách mạng Việt Nam".
Tuy nhiên có điểm sau đây
cũng do ông kể lại: "Trong đề cương ấy có những chữ chính trị khó hiểu, nhưng
cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính, ...".
Tôi không có ư nói rằng hễ
người nào không biết ngoại ngữ hoặc có biết nhưng không giỏi th́ không thể chọn
được đường đi cho dân tộc ḿnh, nhưng ở vào hoàn cảnh của ông lúc đó, là người
Việt Nam duy nhất đi theo con đường của Lê Nin, như chính ông và những đồng chí
của ông đă nhiều lần khẳng định, mà với một bài viết không dài lắm ông đọc vất
vả như vậy, th́ sẽ không dễ ǵ ông hiểu được toàn bộ tư tưởng của Lê Nin, lại
càng khó có thể hiểu được những tư tưởng của Mác . (v́ như chúng ta biết là văn
phong của Mác đọc rất khó hiểu, mà anh Nguyễn lúc ấy lại không có các tác phẩm
của ông bằng tiếng Việt trong tay.).
Một điểm nữa cũng cần phải
lưu ư là việc tán thành Quốc Tế III của ông là ở vào một hoàn cảnh khác sau đó :
Nước Pháp - Thành phố Tours
cuối tháng 12/1920, lúc này đảng xă hội Pháp nhóm họp đại hội lần thứ 18 để thảo
luận và quyết định một vấn đề quan trọng: nên tiếp tục theo Quốc Tế II như
truyền thống hay theo Quốc Tế III? anh Nguyễn cũng được đảng chọn làm đại biểu
đại diện cho xứ Đông Dương thuộc Pháp tham dự đại hội. Sau này CT Hồ Chí Minh
cũng đă kể lại đại ư : " Sau phần bỏ phiếu, người nữ thư kư ghi biên bản của
đại hội hỏi : Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc Tế III? - Ông đáp: Rất đơn
giản, tôi không phân biệt rơ sự khác nhau giữa Quốc Tế II, Quốc Tế II rưỡi hay
Quốc Tế III. Tôi cũng không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô
sản và nhiều điểm khác, nhưng tôi hiểu rơ một điều: Quốc Tế III rất chú ư đến
vấn đề giải phóng thuộc địa, đến tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc
tôi. Đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi
hiểu,…". (có tài liệu viết rằng đoạn đối thoại trên là xảy ra trước phần bỏ
phiếu, nhưng theo tôi điều đó không ảnh hưởng ǵ đến thực chất của vấn đề.).
Theo đánh giá của nhiều
người th́ câu chuyện ấy nói lên rằng đó là những khoảnh khắc lịch sử để CT Hồ
Chí Minh "Đi từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến yêu CNXH sâu sắc". Theo tôi
đây là một điểm lớn cần phải phân tích kỹ hơn *, nhưng cũng qua đó lại thêm một
lần nữa khẳng định tính "hên - xui, may - rủi" trong việc chọn đường đi cho dân
tộc của ông : một khi mà vào tháng 7 ông đă "nhất quyết đi theo ngọn đuốc của
Lê Nin vĩ đại" rồi, mà 5 tháng sau đó ông vẫn không hề biết rằng Quốc Tế III
chính là do Lê Nin sáng lập từ năm 1919 để dứt khoát chọn ngay từ đầu, vừa là để
củng cố thêm cho con đường mà ḿnh đă chọn, vừa ủng hộ cho người thầy lớn của
ḿnh. V́ vậy có thể nói trộm vía ông rằng: Hoàn cảnh mà CT Hồ Chí Minh đă chọn
đường đi cho dân tộc vào năm 1920 ấy chẳng khác nào hoàn cảnh của một người ...
bắt mèo ở trong bị! Hay nói một cách khác th́ nó cũng tương tự như hoàn cảnh của
một người đang ngồi trong ... ṣng bài! Trong điều kiện làm việc đơn phương, vừa
đói thông tin, vừa nghèo phương án đến như vậy, th́ chẳng cứ ǵ chàng trai
Nguyễn Tất Thành, mà bất cứ ai dù có là vĩ nhân đi chăng nữa, nếu có chọn được
một con đường nào đó cho dân tộc, th́ chắc chắn nó cũng sẽ có độ rủi ro cao,
lành ít dữ nhiều mà thôi. (sau đại hội trên những ai bỏ phiếu cho Quốc Tế III đă
tách ra để thành lập ĐCS Pháp, v́ vậy đại hội Tours c̣n được gọi là đại hội sáng
lập ĐCS Pháp.).
Một câu hỏi đặt ra là nếu
CT Hồ Chí Minh không chọn con đường của Lê Nin, th́ Việt Nam sẽ đi theo con
đường nào? Câu trả lời là: Việt Nam sẽ đi theo con đường các nước Đông Nam Á
(ASEAN) đă đi, mà Việt Nam chỉ mới ra nhập từ năm 1995 đến nay. Nếu như vậy đất
nước đă không bị chậm nhiều chục năm so với thế giới, không phải gánh chịu những
hậu quả kéo dài đến tận hôm nay, mà tôi xin tŕnh bày rơ hơn ở phần sau. Cũng
như đă tránh được mức độ khốc liệt vào giai đoạn cuối cuộc chiến tranh Đông
Dương lần thứ I (1946 - 1954). Và dĩ nhiên cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ
II (1954 - 1975) cũng đă không xảy ra. Máu xương của nhiều triệu con người Việt
Nam ở cả hai phía đă không phải đổ xuống.
Toàn bộ cục diện quốc tế và
khu vực châu Á - Thái B́nh Dương đă chứng minh điều này. Điển h́nh là trường hợp
của Malaysia: tuy các phong trào khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền của nước
này, kể cả phong trào cộng sản đều bị thất bại nặng nề, nhưng vẫn được người Anh
trao trả lại độc lập vào năm 1957. Một số nước khác th́ sớm hơn như : năm 1946
có Philippines thuộc Mỹ, Syria và Liban thuộc Pháp. Năm 1947 có Ấn Độ, Pakistan
và năm 1948 có Miến Điện (Myanmar), SriLanka, Palestin đều thuộc Anh và
Indonesia thuộc Hà lan năm 1949, v.v… (riêng Thái Lan do nét đặc thù riêng nên
không phải là một nước thuộc địa trước đó.)
T́nh h́nh các nước khác ở
châu Phi, Mỹ La tinh, v.v… cũng là như vậy. Tất cả đều giành được độc lập dù ở
đó có hay không có các đảng cộng sản lănh đạo, có phong trào khởi nghĩa vũ trang
hay không. Đây là kết luận chung của các sử gia khách quan, chứ tôi không hề có
ư định làm cái anh chàng "Khổng Minh sau trận đánh". Việc trao trả lại nền độc
lập từ các nước chủ thuộc địa cho các nước thuộc địa cũ không phải diễn ra đồng
thời, mà kéo dài từ năm 1945 đến giữa thập niên 60 trong thế kỷ 20. Trong đó nổi
bật lên vai tṛ can thiệp của nước Mỹ, với đầy đủ cả những mặt xấu lẫn tốt của
nó *.
V́ vậy nếu ai nói rằng: CT
Hồ Chí Minh đă có công đầu trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê Nin vào Việt
Nam, rồi sau đó lănh đạo ĐCS Việt Nam đưa dân tộc vào quỹ đạo của CNXH th́ đúng.
Nhưng nếu lại nói đấy là con đường duy nhất để Việt Nam giành lại được độc lập
là sai. Càng sai hơn nữa nếu gắn thêm vào đấy những giá trị như : hạnh phúc và
ấm no, b́nh đẳng và bác ái, dân chủ và tự do, v.v… Thậm chí có người cho đến lúc
này vẫn c̣n so sánh mức sống chung của nhân dân hôm nay với trước cách mạng
tháng 8/1945!(mà có khi cả làng chỉ vài nhà có xe đạp). Tôi cho rằng bằng cách
đó họ đă tự gây thích thú cho ḿnh nhưng đă làm khổ cả một dân tộc .
Nguyên soái Giu-Cốp
(Zhukov), 4 lần anh hùng Liên Xô - người có công rất lớn với nhân loại trong
cuộc chiến tranh thế giới thứ II, đă viết trong cuốn hồi kư Nhớ Lại Và Suy Nghĩ
của ông : "Người ta có thể xuyên tạc hay bóp méo lịch sử, nhưng không ai có
thể làm lại được lịch sử ...". Ngày nay sau gần 80 năm trôi qua, dân tộc
Việt Nam hoàn toàn có đủ điều kiện để chọn lại con đường đi cho dân tộc ḿnh.
Nhất định cả dân tộc cùng chọn sẽ tốt hơn một người chọn. Và v́ đây là vấn đề
của cả dân tộc th́ phải để cho cả dân tộc ấy chọn. Không ai hoặc bất cứ một lực
lượng chính trị nào có quyền đứng ra nhân danh dân tộc để tự ấn định hay khước
từ quyền tự quyết thiêng liêng ấy, v́ những lợi ích riêng của họ. Chính điều đó
mới là vừa thiếu đạo đức, vừa thiếu văn minh!
3 - Đường lối
"Xây
dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa"
ở Việt Nam hiện
nay.
3.1 - Hoàn
cảnh ra đời:
Đường lối này bắt đầu ở
Việt Nam vào cuối thập niên 80, nhất là sau đại hội VII ĐCS Việt Nam năm 1991,
tên đầy đủ hơn của nó là: "Xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lư và điều tiết của nhà
nước theo định hướng XHCN, với thành phần kinh tế quốc doanh đóng vai tṛ chủ
đạo". Nó cũng là sự tiếp nối của đường lối đổi mới kể từ đại hội VI ĐCS Việt Nam
năm 1986. Nó diễn ra trong bối cảnh toàn phe XHCN trước, sau ở từng nước đều đă
phải đi t́m những con đường mới nhằm thay thế cho con đường cũ đă thất bại.
Nhưng khác với trước là có cả một học thuyết lớn dẫn đường, th́ những con đường
mới đều là những giải pháp t́nh thế. Cụ thể là :
- Với các nước Đông Âu và
Liên Xô sau nhiều trăn trở, cuối cùng họ chấp nhận thất bại, kiên quyết đoạn
tuyệt hẳn với quá khứ và làm lại từ đầu, nhằm bắt kịp ḍng chảy của thời đại.
- Với Cu Ba và Bắc Hàn th́
vẫn tiếp tục cố thủ, không đổi cũ mà cũng chẳng đổi mới. Gần đây mới có những
chuyển động, đang được thế giới quan tâm theo dơi.
- Với Trung Quốc là đường
lối "Xây dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc", được bắt đầu từ năm 1978. Thực chất
của nó là sự thay thế từ thuyết "Hai ngọn gió Đông - Tây" của Mao Trạch Đông
sang thuyết "Hai con mèo đen - trắng" của Đặng Tiểu B́nh. (một khi mà "gió Đông"
không thổi bạt được "gió Tây" th́ người ta quay sang "bắt chuột" bằng bất cứ
loại mèo nào, dù là mèo đen hay mèo trắng!). Điều này một mặt tạo ra động lực để
nền kinh tế - xă hội Trung Quốc chuyển ḿnh, nhưng mặt khác nó cũng cho người ta
thấy : đây chính là một màn "thoát y vũ" ngoạn mục nhất về lư tưởng cộng sản!
- Với Việt Nam th́ tương tự
như Trung Quốc : đổi mới kinh tế nhưng cương quyết không chấp nhận đổi mới chính
trị.
3.2 - Cơ sở
của đường lối mới:
Bây giờ ta đi vào phân tích
xem đường lối mới có cơ sở khoa học hay không? Nếu có th́ dân tộc phải ủng hộ
nó. Nếu không th́ cả dân tộc phải cương quyết đấu tranh cho cái mới ra đời, thay
thế và phát triển theo quy luật:
- Xét về tính chất sở
hữu th́ giữa hai nền kinh tế thị trường và nền kinh tế XHCN là hoàn toàn
khác nhau: một cái chủ yếu là dựa trên cơ sở "tư hữu", c̣n cái kia lại chủ yếu
dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nếu đem "trộn" chúng lại với
nhau th́ sẽ nảy sinh một quá tŕnh ngược: mỗi bước tiến của cái này sẽ là một
bước lùi của cái kia và ngược lại.
- Xét về bản chất chính
trị ứng với chúng th́ cũng lại hoàn toàn khác nhau (theo Lê Nin th́ chúng
hơn kém nhau tới hàng triệu lần!). Nếu cũng đem "trộn" nền kinh tế này với nền
chính trị kia th́ ngoài việc nó mâu thuẫn với những nguyên lư chung, nó c̣n mâu
thuẫn với chính "vấn đề cơ bản của triết học Mác-xít" rằng: "vật chất quyết định
ư thức", "tồn tại xă hội quyết định ư thức xă hội" hay "cơ sở hạ tầng quyết định
kiến trúc thượng tầng", v.v… (anh Hà Sỹ Phu gọi sự kết hợp này là "đứa con
lai láu cá"!).
Giả sử có một nền chính trị
nào đó mà trước kia đă phù hợp với nền kinh tế XHCN, rồi nay lại cũng "sài" được
luôn cho nền kinh tế thị trường, th́ theo tôi có lẽ nó cũng giống như những viên
thuốc ... xuyên tâm liên chữa khỏi bách bệnh, được quảng cáo rầm rộ ở Việt Nam
ngày nào! V́ vậy tôi rất "khâm phục" vào tính "linh hoạt" của nhiều vị "thầy
lang" ta, nghĩa là bệnh "hàn" hay "nhiệt" ǵ th́ các vị cũng đều chỉ định cho cả
dân tộc uống "xuyên tâm liên" hết.
Có thể có một cách so sánh
khác như sau: việc đưa ra công thức "trộn" trên cũng chẳng khác nào bảo cứ đun
... một góc vuông thêm 10oC nữa th́ sẽ được … nước sôi! V́ nhân dân được họ giải
thích rằng: độ của góc vuông là 90, c̣n độ sôi của nước là 100! Nhiều khi tôi cứ
tự hỏi tại sao người ta lại bày chuyện cho cả một dân tộc lụi cụi đi "đun góc
vuông" hoặc miệt mài "uống xuyên tâm liên" như vậy ? Nhất định phải có cái ǵ đó
rất cụ thể, rất hữu h́nh chứ. Phải chăng cái đó là: dù đất nước sẽ tiến hay lùi,
hay " nửa chừng xuân" th́ đó không phải là điều mà những người khởi xướng nó
quan tâm. Điều quan trọng nhất là phải làm sao khẳng định cho bằng được rằng:
"ĐCS Việt Nam vẫn luôn luôn là lực lượng chính trị duy nhất lănh đạo đất nước,
trước đây là vậy, ngày nay là vậy và măi măi sau này cũng sẽ là như vậy - đây là
vấn đề có tính nguyên tắc"! Tất cả mọi cái gọi là đường lối hay một cái ǵ khác
tương tự chỉ là h́nh thức * và để tŕnh diễn mà thôi. Nếu quả là như vậy th́ "bà
chị" kia ác quá, đă biết "lá diêu bông" là thứ không hề có trên cơi đời này rồi
mà vẫn cứ bắt người khác đi t́m, c̣n ḿnh th́ lẳng lặng đi "lấy chồng". Lại c̣n
đi bước nữa, bước nữa!
Từ những tŕnh bày trên ta
rút ra nhận xét: cũng như trước kia, đường lối mới hiện nay cũng hoàn toàn không
có cơ sở khoa học và thực tiễn. V́ vậy khi đi vào cuộc sống tất nhiên nó sẽ nảy
sinh ra nhiều hậu quả khôn lường. Nó không tránh khỏi sự khập khiễng, chắp vá
theo kiểu "râu ông - cằm bà", và sớm muộn ǵ cũng đi vào bế tắc và khủng hoảng
xă hội.
3.3 - Một số
nét tiêu biểu của thực trạng xă hội Việt Nam hôm nay:
Thực trạng xă hội Việt Nam
hôm nay th́ dư luận cùng các nhà đầu tư, giới phân tích thời cuộc trong, ngoài
nước cũng như các báo cáo của đảng, quốc hội và chính phủ Việt Nam đă đề cập rất
rơ. Dưới đây tôi chỉ xin đưa ra một số nhận xét tiêu biểu theo cách nh́n riêng
của ḿnh.
a - Sự lập lờ giữa hai
vế của đường lối:
Đó là những cú "bật tường"
ngoạn mục giữa thành tích và khuyết điểm. Nhiều người có xu hướng dồn hết mọi
tội lỗi, xấu xa cho cái "gă thị trường nhơ nhuốc" kia. (nhưng khổ một nỗi là nếu
lại tống cổ gă ta đi cho khuất mắt th́ xă hội lại sẽ không có động lực như
trước.). C̣n những ǵ được cho là tử tế, hay ho th́ chính là bởi "chàng định
hướng thanh tao"! Cũng phải thấy rằng "chiến thuật bật tường" này đă có từ thuở:
Mất mùa th́ tại thiên tai
Được
mùa là bởi thiên tài đảng ta!
và trước đó nữa, cứ thế
"các thế hệ cầu thủ trong câu lạc bộ" ấy truyền ngón nghề này lại cho nhau. Cuối
cùng th́ hầu như tất cả đều nhuần nhuyễn và đội bị "phơi áo" chính là nhân dân
Việt Nam. Ngày nay mọi người đều thấy rằng biểu hiện cụ thể và rơ ràng nhất của
tính "định hướng XHCN" là sự lănh đạo đất nước duy nhất của ĐCS Việt Nam, c̣n
trừu tượng và mờ nhạt nhất là những chính sách về phúc lợi xă hội, những khoản
ngân sách dành cho y tế, giáo dục, v.v ...
b - Sự bất công xă hội
sâu sắc:
Nếu bây giờ có ai đó c̣n
nói rằng "xét cho cùng th́ quyền lợi của đảng và của toàn dân tộc luôn luôn
thống nhất làm một !", th́ tôi cho rằng bằng cách đó tuy họ chưa đưa ai lên được
sao Kim, sao Hỏa! Nhưng đă tự đưa ḿnh lên tới đỉnh cao nhất của sự ngụy biện và
thói đạo đức giả. Những người dân Việt Nam, nhất là những người nông dân quanh
năm chân lấm, tay bùn đă bị bóc lột đến cùng cực cả về vật chất lẫn tinh thần.
Họ như những người suốt đời phải "đóng hụi" nhưng chẳng bao giờ được "hốt hụi"
vậy. Đa số chỉ mong làm sao có được "bánh ḿ", chứ nào dám mơ tới "hoa hồng".
("Bánh ḿ và hoa hồng!", một khẩu hiệu do Lê Nin đề ra sau Cách Mạng
Tháng 10 Nga). Suốt đời chịu khó, chắt chiu là vậy :
…Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn
lá
Mỗi ḥn than, mẩu sắt, cân ngô
Ta nâng niu gom góp dựng cơ
đồ!…
(Tố Hữu -
Bài Ca Mùa Xuân 1961).
Nhưng tại sao cơ đồ măi mà
không dựng lên được ? Đơn giản là v́ cơ chế ấy đă tạo ra quá nhiều bàn tay cả vô
h́nh lẫn hữu h́nh tḥ ra tước đoạt hết rồi. Nếu các cụ Nam Cao, Ngô Tất Tố c̣n
sống th́ từ nhiều mảnh đời hôm nay, nhất định các cụ sẽ cho ra ḷ những Sống
Ṃn, Tắt Đèn của Việt Nam thế kỷ 21! Một thị trường sức lao động đă tự phát h́nh
thành bởi sự bần cùng hóa, ở đó nhiều người chỉ mong sao bán được sức lao động
để đổi lấy miếng cơm, manh chiếu mà ăn ngủ qua ngày cho bản thân và gia đ́nh họ
thôi. Chứ nào có ai quan tâm đến chuyện những người đi thuê đă bóc lột một phần
hay toàn bộ "giá trị sức lao động thặng dư" của họ đâu?
Từ quảng trường Ba Đ́nh -
Hà Nội ra ga Hàng Cỏ nếu đi xe hơi chỉ mất chừng 5 - 7 phút, nhưng có mấy vị đại
biểu trước khi vào hội trường họp thử ra đấy xem nhân dân đi lại, làm ăn như thế
nào? Xa hơn một chút là những chợ lao động Giảng Vơ, Long Biên nơi mà quần chúng
lao khổ khắp nơi đổ về, tụ tập lại. Họ giống như giai cấp vô sản ở thế kỷ trước
mà Mác đă từng mô tả: "không c̣n ǵ để bán ngoài việc bán sức lao động", là
"trần như nhộng", v.v… Cái "Tinh thần Ba Đ́nh" trên là căn bệnh ngày càng nặng,
nó có cơ sở là: những mâu thuẫn về quyền lợi từ chỗ chỉ chênh lệch lúc đầu, nay
đă trở thành đối kháng gay gắt giữa một thiểu số giai cấp thống trị với đa số
giai cấp bị trị trong xă hội Việt Nam, kể cả những nhu cầu cơ bản và những nhu
cầu bậc cao hơn của đời sống con người. Dù rằng rất nhiều người trong tầng lớp
trên kia vẫn luôn miệng nói là tất cả đều "ngồi chung mâm", nhưng nhân dân th́
ai cũng thấy tuy họ "mắt nh́n rau nhưng tay lại gắp thịt"! Tốc độ tích lũy tư
bản của họï nhanh đến mức chóng mặt.
c - Sự bất lực của đảng
và chính quyền trước quốc nạn tham nhũng :
Chỉ với 77 bị can trong vụ
án Minh Phụng - Epco được đưa ra toà xét xử vào năm 1999 vừa qua cũng đă làm
thiệt hại số tiền thuế đóng góp của nhân dân là 4000 tỷ đồng Việt Nam (VNĐ), tức
là khoảng 280 triệu đô la Mỹ (USD). Nó tương đương với một trong các giá trị
sau:
* Hơn 5 chiếc cầu Mỹ Thuận
bắc qua sông Me Kong. (khoảng 54 triệu USD, với Úc đóng góp 2/3 và Việt Nam
1/3).
* Gần bằng tổng mức thiệt
hại cơn băo lụt miền Trung năm 1999. (trên 300 triệu USD).
* Gần bằng 3/4 tổng kinh
phí xây dựng xa lộ Trường Sơn giai đoạn I mới được khởi công xây dựng . (khoảng
380 triệu USD).
* Bốn lần tổng chi phí thay
sách giáo khoa hàng năm. (khoảng 1000 tỷ VNĐ/năm) hoặc 80 bệnh viện cấp tỉnh
(khoảng 50 tỷ VNĐ/1 bệnh viện), trong khi Việt Nam có tất cả 61 tỉnh, thành phố.
* V.V...
Nếu chia đều cho tất cả
người dân Việt Nam th́ mỗi người cũng bị mất 50,000 VNĐ tương đương với 30 cân
thóc. (tính giá1600-1700 VNĐ/cân, gần đây c̣n giảm hơn nữa). Nếu cộng tất cả các
"phi vụ" đă hoặc chưa bị phát hiện th́ không thể biết được là các "hào kiệt"
thời nay đă "xúc trộm" của nhân dân tính cả già, trẻ, lớn, bé mỗi người là bao
nhiêu cân thóc ? Rừng bị phá, núi bị bạt, đất bị bán, biển bị khoan như vậy,
nhưng đa số những người dân lương thiện đă được hưởng ǵ từ đó? Tiền của đi đâu
hết cả? Bất cứ ai là người Việt Nam, không ít th́ nhiều đều có thể trả lời được
câu hỏi này.
Cái cỗ máy kia những tưởng
ù lỳ, chậm chạp là vậy nhưng mỗi khi ngửi thấy hơi tiền th́ lập tức nó "hăng
máu lên" ! (chữ của Mác). Nếu cụ Đồ Chiểu mà sống lại chắc cụ phải "khâm
phục" về sự "liều ḿnh như chẳng có" của các "nghĩa sỹ" thời nay lắm.
Thậm chí có một "nữ anh hùng miền Nam" sau khi đă có dư luận về việc bà ta dùng
tiền công quỹ mua nhà cho chàng kép cải lương của ḿnh, th́ chẳng những đă không
sợ mà c̣n nổi giận đùng đùng xuất tiếp "tiền chùa" trả thêm cho khoản nợ c̣n
lại, quả là "thay trai nay gái cũng đua tài"! dẫu có thể ngày đầu chưa quen
"đường cầy" đâu thẳng ngay, nhưng đến hôm nay th́ trên đất nước này đă có nhiều
"đường cầy đảm đang" lắm rồi.
Giả sử ai đó có ư định tổ
chức một "Đại hội các anh hùng, chiến sỹ thi đua toàn quốc" thuộc loại này th́
Việt Nam ngày nay cũng "ra ngơ gặp anh hùng"! Cùng với những tiêu cực trong các
công tác thanh tra, điều tra và thi hành án mà dư luận, báo đài trong nước đă
từng nêu ra càng làm cho tinh thần "tay không bắt giặc" của các "hào kiệt",
"nghĩa sỹ" thời nay dâng cao hơn bất cứ một thời đại nào trước đó. Để rồi có
người đă dựa vào một bài thơ của Hồ Chủ Tịch mà sửa lại thành:
Danh sách ở trong lao
Thân thể ở
ngoài lao
Muốn nên "sự nghiệp lớn"
Phóng lao phải theo lao!
Chỉ có điều khi "sự nghiệp"
của họ càng "đại thành công" th́ sự nghiệâp của cả dân tộc càng đại thất bại. Ở
Việt Nam hôm nay không phải như Lê Nin nói: "Cách mạng là sự nghiệp, là ngày
hội của quần chúng", mà chính buôn lậu và tham nhũng mới thật sự là "ngày
hội" của nhiều người.
Khi nồi canh có một con sâu
đă là "rầu" rồi, nhưng nếu nồi canh ấy đầy sâu th́ vấn đề là phải xét lại chính
"người nhặt rau", hay nói chính xác hơn là phải xét xem tại sao lại có cái "cơ
chế nhặt rau" tai hại ấy ? Theo tôi nếu không có sự thay đổi sớm th́ một nền
kinh tế Việt Nam với nợ nần lút đầu, thực sự không có khả năng chi trả. Đất nước
bị xé lẻ ra để bán, vốn trong các xí nghiệp quốc doanh hoặc các liên doanh có
một bên góp vốn thuộc sở hữu nhà nước chuyển dần sang tư nhân bằng nhiều cách
khác nhau là sẽ ngày càng trầm trọng, dẫn tới nguy cơ mất nước kiểu mới.
Cũng cần phải lưu ư rằng
với t́nh trạng thông tin như ở Việt Nam hiện nay, th́ nhân dân cũng chỉ biết
được đất nước ḿnh có bị vỡ nợ nước ngoài hay không ít nhất là phải hơn mười năm
nữa. Bởi v́ kỳ hạn của các khoản tín dụng trung và dài hạn thường là từ 20 năm
trở lên, mà Việt Nam cũng chỉ mới bắt đầu vay được nhiều của nước ngoài (WB,
IMF, ADB, Nhật Bản, Tây Âu, v.v…) từ năm 1993 trở lại đây. Nhưng lúc ấy th́ đă
quá muộn, trong khi chính nhân dân và con cháu chúng ta sau này mới là những
người phải nai lưng ra trả nợ. C̣n những "vị anh hùng" th́ phần lớn đều đă "hạ
cánh an toàn". Và những vần thơ của vị tướng tài danh Lư Thường Kiệt ngàn năm
trước, vốn được coi như bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của nước Đại Việt, có lẽ
phải sửa lại thành:
"Sông núi nước Nam ... ông Tây
ở!".
Bà Marie Holfman - giáo sư
người Pháp thuộc một viện đại học ở Paris là một nhà Trung Quốc học nổi tiếng,
khi được hỏi: "V́ sao ĐCS Trung Quốc đă từng chứng minh trong quá khứ là họ
có khả năng tiêu diệt được hàng triệu kẻ thù không gớm tay, nhưng trước kẻ thù
tham nhũng đe dọa sự sống c̣n của đảng th́ họ lại bất lực ?". Đă trả lời như
sau : "Theo ư tôi câu trả lời rất giản dị, có một thời kẻ thù của ĐCS Trung
Quốc phần lớn là do óc tưởng tượng của người cộng sản và nằm ngoài đảng. Ngày
nay kẻ thù của họ nằm ngay trong đảng, tôi không có con số thống kê, nhưng có
thể nói là đại đa số những cán bộ có thế lực của ĐCS Trung Quốc là thành phần
tham nhũng. Làm sao mà những người gây ra tham nhũng lại có thể bài trừ được nạn
tham nhũng?". Nếu đem vận những lời giải thích trên vào hiện trạng Việt Nam
th́ cũng hoàn toàn chính xác. Mọi cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn đảng ngắn,
dài, lớn, nhỏ khác nhau đều đă bị đánh trống bỏ dùi, đầu voi đuôi chuột, v́ sợ
rút dây sẽ động rừng.
d - T́nh trạng sản xuất
bị đ́nh đốn, thất nghiệp gia tăng, môi trường đầu tư bị vẩn đục làm cho nước
ngoài rút vốn:
Cũng từ sự bất lực trước
quốc nạn tham nhũng, cộng thêm với sự bất lực trước quốc nạn buôn lậu (chúng có
mối quan hệ hữu cơ thúc đẩy lẫn nhau) và sự cực kỳ lăng phí của công, đă
làm cho nạn hàng giả, hàng nhập lậu trốn thuế tràn vào bóp nghẹt hàng nội địa.
Hậu quả là sản xuất đi xuống và nạn thất nghiệp đi lên. Nó đẩy hàng triệu nông
dân Việt Nam - thành phần chiếm gần 80% dân số cả nước từ các vùng thôn quê đổ
về những thành phố, để kiếm sống lay lắt qua ngày. Đẩy hàng trăm ngàn trẻ em
Việt Nam phải bỏ học để vào đời sớm và cũng đẩy hàng trăm ngàn những cô gái Việt
Nam bước vào cuộc sống dưới ánh đèn đêm, v.v…
Nó cũng làm cho môi trường
đầu tư bị vẩn đục nghiêm trọng. Chính sách cũng không nhất quán người này muốn
đẩy, người kia lại hăm để "cân bằng giữa phát triển kinh tế với ổn định chính
trị." càng làm cho các nhà đầu tư nản ḷng, t́m cách rút vốn chuyển sang các
nước khác làm ăn. Trong hai năm trở lại đây, trước t́nh h́nh đầu tư nước ngoài
tụt dốc thảm hại, Đảng, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam cùng các ngành, địa
phương đă đưa ra nhiều biện pháp nhằm khuyến khích nguồn này quay trở lại. Bằng
cách đó cũng có thể cải thiện được phần nào t́nh h́nh, nhưng không v́ thế mà vấn
đề sẽ được giải quyết tận gốc rễ. Bởi v́ nguyên nhân sinh ra nó, xuất phát từ
chế độ chính trị là vẫn c̣n nguyên : một chế độ chính trị ổn định được đồng
nghĩa đơn giản với việc chỉ có duy nhất một đảng lănh đạo đất nước, không
thuyết phục được thế giới tiến bộ nói chung và các nhà đầu tư nghiêm túc nói
riêng. Nếu như không muốn nói ngược lại là chính sự "ổn định" ấy đang là nguyên
nhân sâu xa gây ra những bất ổn. Họ - những nhà đầu tư có phương pháp đánh giá
rủi ro riêng, chứ không phụ thuộc vào những ǵ chúng ta nói. Chúng ta có mạng
lưới thông tin toàn cầu để phổ biến chính sách thu hút vốn, th́ họ cũng có một
mạng lưới như vậy, lại c̣n mạnh hơn để thông báo cho nhau những rủi ro khi đầu
tư ở Việt Nam, v́ họ đă có kinh nghiệm: Với một thị trường đă bị "chiến trường
hóa" hôm nay là khác hẳn với một thị trường đầy mới lạ, hứa hẹn những hấp dẫn mà
họ đă kỳ vọng 5 - 6 năm trước. Những nhà tư bản đi t́m kiếm lợi nhuận dù có yêu
đất nước và con người Việt Nam đến mấy, nhưng một khi mà tiền không đẻ ra tiền
th́ cũng khó ḷng mà "hăng máu lên" được !
Cộng thêm là những căn bệnh
c̣n rất nặng nề và phổ biến như: "du kích chiến" và "địch - ta", v.v ... càng
làm cho vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn. Với căn bệnh đầu là vẫn c̣n nhiều người
làm kinh tế theo kiểu "nắm thắt lưng địch mà đánh" hoặc là "thằng Tây nó tiến
th́ ḿnh giật lùi, thằng Tây nó lúi (lùi) th́ ḿnh giật tiền, thề quyết không
tha !" (hát theo nhạc bài Đoàn Vệ Quốùc Quân của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu). Điều
này cựu thủ tướng Singapore Lư Quang Diệu khi làm cố vấn cao cấp cho các nhà
lănh đạo Việt Nam đă từng khuyến cáo, bằng cách này một số người có thể đạt được
"thắng lợi" trong đoản kỳ, cá biệt nhưng về lâu dài th́ chắc chắn là thất bại,
nếu đứng trên b́nh diện quốc gia để đánh giá.
Với căn bệnh sau là luôn lo
sợ "địch" làm "diễn biến ḥa b́nh" dẫn tới mất chế độ ta ! Để rồi có người đă
dựa vào nhạc bài hát Huyền Thoại Mẹ của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn mà mô tả chân
dung họ như sau :
Hôm nay đây bỏ cấm vận
"Địch" nó
lại ṃ qua
V́ lợi ích quốc gia
Ta cụng ly với địch
Nhưng ḷng luôn thầm
định
Địch là địch, mà ta là ta !
Đêm chong đèn ngồi nhớ
rượu…
Nhưng nh́n vào bức tranh
Việt Nam hôm nay th́ cũng dễ thấy: rất nhiều chương tŕnh, công tŕnh lớn, nhỏ
thuộc nhiều lĩnh vực, cả bề nổi lẫn bề sâu được thực hiện đều có sự đóng góp của
"địch"! Kể cả các công tŕnh nâng cấp, trùng tu, bảo tồn, v.v … Cụ thể là các
chương tŕnh cho y tế, giáo dục, điện, nước, giao thông vận tải, ngăn chặn và
triệt hạ tội phạm, pḥng chống và khắc phục thiên tai, bảo vệ môi trường, cải
cách hành chính, luật pháp, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xă hội,
xóa đói, giảm nghèo,… và rơ ràng nhất là chiếc cầu Mỹ Thuận vừa được khánh
thành. (dỹ nhiên có nhiều người cũng chỉ là giả vờ mắc bệnh này để thực hiện
"vận hội" của ḿnh thôi. Việt Nam ngày nay là "miền đất hứa" của thói đạo đức
giả. Chính nó, theo đức giáo hoàng Giôn-Pôn II là nguyên nhân sâu xa đă gây ra
biết bao tội lỗi trên thế gian này.).
Cùng một cách nh́n trên,
với t́nh h́nh hiện nay, tôi cho rằng chúng ta cũng không nên hy vọng thái quá
vào những vấn đề lớn khác như: hiệp ước quan hệ mậu dịch b́nh thường Việt - Mỹ
được kư kết, kể cả việc Việt Nam sẽ ra nhập vào Tổ Chức Mậu Dịch Quốc Tế (WTO),
... những điều đó nếu nỗ lực đều có thể đạt được trong tương lai gần, nhưng rồi
những niềm phấn khích ban đầu cũng sẽ qua mau, bởi v́ những yếu kém vẫn c̣n đó.
Rất nhiều thách thức đang chờ đón chúng ta ở phía trước, chẳng hạn là hàng hóa
của Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ và nhiều nước khác đă sang trước, th́ chắc ǵ
chúng ta đă "chọi" được họ để giành được một thị phần như mong muốn ?
Tương tự là vấn đề thị
trường chứng khoán: liệu chúng ta có xây dựng và vận hành tốt được cái "Chợ
chứng khoán" này hay không, một khi mà giá trị những hàng hoá trong cái chợ ấy
(giá trị của các công ty cổ phần) rất dễ bị đánh tráo giữa thật - giả, tốt -
xấu, …? (Chưa kể đến sự yếu kém chung của nền kinh tế, cũng sẽ làm cho cái thị
trường ấy èo uột theo.). Theo tôi sẽ là không sớm nếu như ngay từ bây giờ đă
phải có những biện pháp nghiêm ngặt để ngăn chặn, nhằm hạn chế bớt những vụ án
kiểu Minh Phụng - Epco trên thị trường vốn thông thường, sẽ lan sang thị trường
vốn đặc biệt này trong tương lai. V́ nếu nó xảy ra th́ mức độ thiệt hại c̣n lớn
hơn nhiều lần, và rồi hậu quả cũng lại đổ hết lên đầu dân mà thôi. Tất nhiên với
quan niệm Việt Nam cần phải hội nhập càng sớm càng tốt vào nền kinh tế thế giới.
Với tư cách là một công dân Việt Nam, tôi hoàn toàn ủng hộ những nỗ lực của phó
thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, cùng nhiều người khác ở cả trong và ngoài đảng để
thúc đẩy cho những vấn đề trên sớm thực hiện. Chúng cũng sẽ là những điều kiện
tốt để đẩy nhanh tiến tŕnh dân chủ hóa đất nước.
e - Sự xuống cấp của con
người Việt Nam:
Trong tất cả những sự đổ vỡ
th́ đây là sự đổ vỡ lớn nhất, khó khắc phục hậu quả nhất, những cái cần mất th́
lại c̣n, những cái cần c̣n th́ lại mất. Ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng:
cây ngay là dễ bị chết đứng nhất, những người ở hiền th́ thường gặp ác, c̣n
những kẻ ở ác lại hay gặp "lành"! Những triết lư sống như: "Sống chết mặc bay,
tiền thầy bỏ túi", "quân tử nhất ngôn là quân tử… dại, quân tử ... nói đi nói
lại mới là quân tử khôn !" hoặc "có tiền mua tiên cũng được ", v.v … đă ngày
càng thắng thế. Để rồi đă phát sinh ra một thực tế được nhiều người dân Việt Nam
nh́n nhận là: người thật, chức vụ thật, bằng cấp cũng "thật" (v́ đều có chữ kư
và con dấu thật). Chỉ có "mỗi" đạo đức, tŕnh độ và năng lực giả mà thôi!
Một xă hội như vậy ắt sẽ đẻ
ra nhiều Lư Thông hơn Thạch Sanh, một đất nước như thế chỉ có thể đi xuống chứ
không thể đi lên được. Tất cả đều có cội nguồn của nó: một khi mà ở trên "thượng
tầng kiến trúc" đă có một đường lối thực dụng đến mức trần trụi như đă tŕnh
bày, th́ tất nhiên nó sẽ tác động trở lại xuống "hạ tầng cơ sở". Cả hai kết hợp
lại, đă làm cho con người Việt Nam xuống cấp trầm trọng. Có lần tôi là thính giả
của một buổi nói chuyện thời sự vào giai đoạn sau khi Đông Âu và Liên Xô tan ră
một thời gian ngắn, báo cáo viên sau khi phân tích t́nh h́nh thế giới, cùng thế
và lực của cách mạng Việt Nam xong đă kết luận: "…Nói tóm lại đảng ta cương
quyết không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.". Rồi ông cười cười nói tiếp, đùa th́
ít mà thật th́ nhiều: "đảng ta chỉ chấp nhận đa ... đô thôi!". Ai bảo là học
thuyết "Hai Con Mèo" của Đặng Tiểu B́nh không tác động đến tư duy chính trị Việt
Nam ? Lối suy nghĩ sống dựa vào người khác của "cơ chế xin - cho" xưa, mọi việc
đều có "Liên Xô bao" những tưởng là đă mất hẳn, nhưng thật ra là c̣n rất mạnh,
nó chỉ chuyển "đối tác" thôi. Để từ đó nó cũng chuyển từ tinh thần tự lực, tự
cường của dân tộc sang "Tinh thần bị gậy" của nhiều quan chức thời nay. Nhiều vị
"tung hoành" khắp năm châu , bốn biển v́ "Việt Nam hôm nay đă là bạn của tất cả
mọi người" ! (nhưng với những anh nghèo th́ thấy các vị cũng làm bạn qua quưt,
chiếu lệ lắm!) Việt Nam đă tiến hay đă lết vào thế kỷ 21 ? Theo tôi vấn đề nằm ở
vế thứ hai.
Tất cả đă lan nhanh từ
trong đảng ra toàn xă hội, nhiều người coi việc sống tử tế, có t́nh nghĩa trước
sau với nhau là "lỗi thời", họ lao vào sống gấp, tới đâu hay tới đó, nhất là lớp
trẻ để rồi xuất hiện những con người "như chân lư sinh ra" th́ ít mà
do...sơ ư sinh ra th́ nhiều! Các em tự ư bỏ học, rồi túm năm tụm ba với nhau
chơi bời, hút chích, đua xe, cướp giật, v.v... có em coi việc vào tù chỉ là một
chuyến đi chơi xa thăm bạn bè. Điều ǵ đă làm các em đi tới chỗ tự hủy hoại
ḿnh, làm khổ gia đ́nh và làm băng hoại xă hội như vậy ? Xin đừng vội trách lớp
trẻ, chính sự bàn giao thế hệ quá lèm nhèm hiện nay đă là một trong những nguyên
nhân chính, tạo ra tâm lư nổi loạn, phá phách ấy và đáng trách hơn cả phải là
thế hệ đi trước .
Ngày càng có ít người quan
tâm đến những vấn đề lớn của đất nước, v́ đều cảm thấy chán nản và bất lực.
Người ta đi t́m những giải pháp cá nhân để tự cứu ḿnh và cứu gia đ́nh. Có người
t́m cách ở ẩn, có người chuyển sang thiền, chơi cây, cá cảnh, nghiên cứu tử vi,
bói toán, đề đóm. Nhiều người quay sang bia rượu, để rồi từ đó hiện lên h́nh ảnh
Đất Nước, với những lời được hát theo nhạc một bài hát cùng tên của nhạc sỹ Phạm
Minh Tuấn : "Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu, nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần
... rót bia hơi hai lần rót nhầm … rượu thuốc. Các anh say mềm ḿnh mẹ ... dọn
mâm ! Đất nước tôi - đất nước tôi, có thế thôi!…". (th́ ra không phải khi hết
chiến tranh rồi là các bà mẹ Việt Nam đă hết các lư do để "khóc thầm lặng lẽ"!
Bà mẹ nào sinh ra các anh như vậy th́ có bao nhiêu nỗi đau mà chẳng dịu hết!
Thôi cũng chỉ biết chúc các anh nếu lần sau có uống th́ rót cho chính xác hơn!).
Giữa sự khủng hoảng về nhân
cách và các loại khủng hoảng khác ở Việt Nam hiện nay có mối quan hệ hữu cơ và
biện chứng, chúng tác động và thúc đẩy lẫn nhau đang đưa đất nước ta tới cái
giới hạn tột cùng của sự nguy hiểm. Nếu không ngăn chặn được, nhất định sẽ có
một ngày tức nước vỡ bờ, dẫn đến một cuộc khủng hoảng toàn diện. Đă có nhiều bộ
luật nghiêm khắc ra đời để trừng trị tội phạm đủ loại. Nhiều người đă bị bắt, bị
bắn nhưng rồi: "đùng đùng đùng! đoàng đoàng đoàng! anh vẫn đi", chẳng lẽ cứ bắt
và bắn măi như vậy hay sao ?
Thủ tướng Thái Lan
Chatichaichoonhavan vào cuối thập niên 80 đă phát biểu một câu nổi tiếng "Biến
Đông Dương từ chiến trường thành thị trường", nhưng ở Việt Nam hôm nay người ta
đă "biến thị trường thành chiến trường" theo đúng nghĩa đen của từ này. Tính
Mafia là có thật và ngày càng bành trướng sâu rộng từ ngoài xă hội tới các cơ
quan công quyền, từ Trung ương tới các địa phương và cơ sở.
3.4 - Một số
điểm cần làm rơ hơn:
- Ư kiến
1: Những năm qua đă
có sự trẻ hoá đội ngũ lănh đạo từ trung ương xuống địa phương và cơ sở, mang lại
sức sống mới cho Đảng và cho dân tộc đấy thôi. Đúng là có như vậy thật, nó khác
với trước là có những người nắm quyền lực tới lúc chết mới thôi. Nhưng đó vẫn
không phải là sự đổi mới mà dân tộc cần. V́ ở một góc độ nào đó, điều này giống
như tṛ chơi "ô ăn quan" của con trẻ: tuy "quân" được rải vào các "ô" có thể đă
phần nào khác trước, nhưng "cơ chế rải quân" th́ vẫn chỉ là một. Có khi c̣n rải
nhầm (?) cả vào các cơ sở tôn giáo hữu thần.
- Ư kiến
2 : Gần đây tỷ lệ
những người ngoài Đảng được nắm giữ các cương vị lănh đạo trong nhiều cơ sở kinh
tế, xă họâi, kể cả trong Quốc hội đă tăng lên. Đấy chẳng phải là biểu hiện của
sự mở rộng dân chủ rồi c̣n ǵ! Cũng đúng là có như thế thật, nhưng thử hỏi liệu
họ có làm được ǵ nhiều không cho dù họ muốn, để thay đổi những vấn đề lớn của
đất nước? Một khi đă được Đảng quyết định tất cả trước đó? V́ vậy chỉ một thời
gian sau khi ra nhập vào bộ máy ấy, th́ họ sẽ thấm thía ngay rằng : hoàn cảnh
của ḿnh sao giống như của chàng An Tiêm xưa trên hoang đảo là vậy. Giả sử ḿnh
có trồng được "dưa hấu", th́ rốt cuộc cũng chỉ đủ cho ḿnh và để "Tiến Vua" mà
thôi ! Đấy là chưa kể đến những khó khăn mà họ cần vượt qua trước đó : cứ phải
nhặt hết thóc ra khỏi gạo th́ các cô Tấm ngày nay mới được đi dự hội "Vua mở"!
Ai không tin điều này, xin hỏi tiến sĩ địa vật lư Nguyễn Thanh Giang, người mà
năm 1993 đă tự ra ứng cử đại biểu Quốc hội khoá IX tại Hà Nội.
- Ư kiến
3: Nhưng ở Việt Nam
cũng có những trường hợp thành công bằng chính tài năng và sức lực của họ đấy
thôi. Cũng đúng là như vậy thật - chính họ là những niềm tự hào và hy vọng của
đất nước. Họ có thể là những nhà doanh nghiệp quốc doanh hay tư nhân, nhà khoa
học hay vận động viên thể thao, nhà kỹ thuật hay một ngư dân, một văn nghệ sỹ
hay một lăo nông. (tất nhiên số này là không nhiều so với những gương "đại thành
công" khác.). Nhưng không bao giờ họ có thể là một nhà chính trị thực sự thành
công, nếu họ không phải là đảng viên cộâng sản. Mặt khác với tài năng ấy, nếu
được sống trong một xă hội thực sự dân chủ th́ nhất định mức độ thành công của
họ sẽ lớn hơn nhiều. Sự rủi ro sẽ giảm hẳn bởi một môi trường cạnh tranh lành
mạnh, cùng với một hệ thống bảo hiểm tốt. Họ sẽ không phải chi ra những món tiền
rất vô lư nhưng cũng rất khó từ chối. Không phải tiếp nhưng vị khách không mời
đeo bám rất dai, mà nếu chỉ sơ ư "thấùt lễ" một lần thôi th́ cũng có thể phải
trả bằng một giá đắt. Muốn được yên thân nhiều người đă đành chịu khuất phục
trước những sự đeo bám kia.
Gần đây Đảng và Nhà nước
Việt Nam có chủ trương lấy ư kiến đóng góp của nhân dân cho "Dự án xây dựng và
phát triển đất nước từ năm 2000 - 2020", nhưng theo tôi trước đó phải lấy ư kiến
nhân dân về đường lối. Nếu chỉ cho phép làm cái sau mà khoanh đỏ cái trước lại
không cho ai được động đến, th́ một khi đường lối đă sai rồi, ắt sẽ kéo những dự
án là con đẻ của nó cũng sai theo, và đất nước do vậy vẫn không có lối ra.
Chúng ta không sợ đất nước không có những dự án đúng, mà chỉ sợ đường đi của
cả dân tộc bị chọn sai!
Từ những tŕnh bày trên ta
rút ra kết luận :
Đường lối mới hiện nay, xét
cả về lư luận lẫn thực tiễn vẫn không phải là "cái cần thiết cho chúng
ta", nó cũng không phải là "con đường giải phóng dân tộc chúng ta "
thoát khỏi ách nghèo nàn và lạc hậu. Để rồi hôm nay, 25 năm đă trôi qua kể từ
khi đất nước thống nhất, nhưng Việt Nam vẫn là một trong 10 quốc gia nghèo nhất
trong tổng số gần 200 nước trên thế giới. Thu nhập b́nh quân đầu người vẫn chỉ
quanh quẩn ở mức 1USD/ngày, ở các vùng nông thôn, vùng sâu, cao, xa,… lại c̣n
thấp hơn nữa. Trước đây nghèo chỉ khổ nhưng ngày nay nghèo c̣n là nhục nữa. Chậm
một thời gian ngắn đă thấy thua thiệt, đằng này đất nước đă chậm từ hết "năm bản
lề" này sang "năm bản lề" khác, hết kế hoạch nọ đến kế hoạch kia. Để hôm nay
con đường đi của dân tộc vẫn loằng ngoằng, quờ quạng như đường đi của một người
bị khiếm thị nặng, đă đi trên con đường lạ th́ chớ, mà lại c̣n bị mất kính, mất
gậy !
Giả sử có ai lúc này c̣n
khẳng định trước nhân dân rằng: chủ nghĩa Mác - Lê Nin vẫn là "chân lư sáng
ngời", là "bách chiến, bách thắng" và tiếp tục dùng nó làm "kim chỉ nam" hay làm
"ngọn đuốc soi sáng đường cho cách mạng Việt Nam", v.v … th́ tôi cho rằng bằng
cách đó họ đă làm cái công việc giống như của những người dùng chiếc sào của con
đ̣ ngang để chống cho con tầu … Titanic ! Sau khi nó đă bị đâm vào tảng băng
định mệnh. Những chiếc sào kia dù là của con đ̣ ngang hay con đ̣ dọc cũng không
thể dùng làm "Giải pháp cho Titanic" vào cái đêm tháng tư năm 1912 ấy được .
Nếu nhớ lại những lời sang
sảng ngày nào của cố tổng bí thư Lê Duẩn đọc tại hội trường Ba Đ́nh, trong đại
hội IV ĐCS Việt Nam năm 1976 rằng: "Nước ta có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà
đă anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ và đă góp phần xứng đáng vào
phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới." (ông nhắc lại những lời
trong di chúc của CT Hồ Chí Minh) và kể từ đây th́: "Đường lên chủ nghĩa xă
hội thênh thênh rộng mở, chúng ta đoàn kết, chúng ta xây dựng, chúng ta cải tạo,
chúng ta tiến lên!".
Rồi đối chiếu với hôm nay
th́ ai cũng thấy là kết quả đă lộn ngược :
Chúng ta không đoàn kết - Dân tộc
đă bị phân hóa sâu sắc và toàn diện.
Chúng ta không thắng lợi - Đất nước đă
bị thất bại cả trong xây dựng và cải tạo, với hàng loạt các kế hoạch 5 năm liên
tiếp bị phá sản.
Chúng ta không tiến lên - Chúng ta đă bị tụt hậu toàn diện
và quá xa so với thế giới.
Mà vấn đề của mọi vấn đề, nguyên nhân của mọi
nguyên nhân là: cho đến nay ĐCS Việt Nam vẫn là lực lượng chính trị duy nhất
lănh đạo đất nước!
4 - Nền dân chủ Việt Nam
và một ư kiến đề nghị.
4.1 - Nền dân
chủ Việt Nam.
a) Thực
trạng :
Năm 1999 tại hội nghị 7
BCHTWĐCS Việt Nam khoá VIII, tổng bí thư Lê Khả Phiêu đă khẳng định trong diễn
văn bế mạc như sau: "Lịch sử thời đại và nhân dân ta không cho phép chia xẻ
quyền lực chính trị cho một thế lực nào khác. Mọi luận điểm tuyên truyền về dân
chủ tuyệt đối, về nhân quyền cao hơn chủ quyền, đa nguyên, đa đảng, … đều là dối
trá, lừa bịp.".
Ở nước ngoài tôi có điều
kiện được đọc hầu hết những bài viết, kiến nghị của các chiến sỹ dân chủ Việt
Nam c̣n sống hoặc đă mất như : Nguyễn Văn Trấn, Nguyễn Khắc Viện, Hoàng Hữu
Nhân, Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Đan Quế, Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đ́nh
Huy, Phạm Thái, Trần Độ, Lê Giản, Lê Hồng Hà, Nguyễn Trung Thành, Ngô Thức, La
Văn Lâm, Nguyễn Văn Đào, Phạm Quế Dương, Trần Dũng Tiến, Dương Thu Hương, Hà Sỹ
Phu, Phan Đ́nh Diệu, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Thanh Giang, Bùi Minh Quốc, Tiêu
Dao Bảo Cự, Hoàng Tiến, các hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Linh
mục Chân Tín, ông Nguyễn Ngọc Lan, lănh tụ các tôn giáo Cao đài, Hoà hảo, … cùng
rất nhiều người khác nữa. Tôi không thấy ai trong số họ đ̣i một thứ dân chủ
tuyệt đối, đ̣i nhân quyền cao hơn chủ quyền cả. Nhưng tại sao nhiều người trong
số họ vẫn bị đàn áp? Chưa kể đến việc gia đ́nh, bạn bè, người thân của họ có khi
cũng bị vạ lây. Chính v́ yêu tha thiết chủ quyền quốc gia, nên những con người
can đảm ấy đă dùng ng̣i bút của ḿnh viết lên những yêu cầu, kiến nghị với ĐCS
Việt Nam hăy đổi mới chính trị song song với đổi mới kinh tế. Tôn trọng những
quyền tự do căn bản của người dân. Trong đó có rất nhiều điểm mà nhóm Nguyễn Ái
Quốc ở Paris * đă viết trong "Yêu sách 8 điểm gửi hội nghị Véc-xây (Versailles)"
năm 1919, mà đến nay vẫn chưa được tôn trọng ở Việt Nam. Nhưng tất cả đều đă
không được đáp ứng.
Nếu nói về đặc điểm của
thời đại ngày nay th́ chính là: Thời đại của sự sụp đổ các chế độ độc tài lớn,
nhỏ với đủ mọi h́nh thức trên phạm vi toàn thế giới. Là sự tan ră của hệ thống
xă hội chủ nghĩa và sự xuất hiện ngày càng nhiều các dân tộc tiến lên trên con
đường dân chủ, đa nguyên, đa đảng và pháp trị. Đấu tranh v́ hoà b́nh, độc lập,
dân chủ và không chủ nghĩa xă hội. Nó ngược hẳn với những điểm cơ bản
trong "Nội dung thời đại", được khẳng định trong Tuyên Bố Chung của Hội nghị 81
ĐCS họp tại Mátxcơva - Liên Xô tháng 12 năm 1960. Cũng chính lịch sử của dân tộc
ta đă chứng minh rằng: có những triều đại đă bị suy vong dẫn tới mất nước v́ sự
thoái hoá của hệ thống chính trị, dù lúc đầu có thể là những triều đại mạnh. Nếu
tổng bí thư Lê Khả Phiêu thực ḷng muốn nghe những ư kiến ngược lại với ông, như
trong một buổi trả lời phỏng vấn báo chí tháng 4/1998 đă phát biểu, th́ ông có
thể coi đây là một trong những ư kiến như vậy từ nhân dân.
Ngoài ra c̣n một số luận
điểm nữa cũng cần làm rơ, ví dụ : "Văn hoá và con người phương Đông là khác với
phương Tây nên không thể đem những giá trị của nền dân chủ phương Tây mà áp dụng
vào phương Đông, vào Việt Nam được". Tôi cho rằng nếu như ai đó vẫn c̣n say mê
với những luận điểm thuộc dạng này th́ cũng xin được lưu ư: Những giá trị tư
tưởng của Mác, Ăng Ghen, Lê Nin, Stalin, v.v… cũng như những giá trị về nhân
quyền và dân quyền đạt được sau hai cuộc cách mạng tư sản ở Mỹ năm 1776 và ở
Pháp 1791, mà CT Hồ Chí Minh đă long trọng trích dẫn trong Bản Tuyên Ngôn Độc
Lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa ngày 2.9.1945 là của phương
Đông hay phương Tây ? Tại sao cái này th́ được mở c̣n cái kia lại cứ bị đóng
chặt măi như vậy? Theo tôi những nền văn hoá có thể khác nhau, nhưng những giá
trị về tinh thần nói chung và dân chủ nói riêng đă được nhân loại khẳng định là
tốt, th́ chỉ có một, nó không có biên giới. Nếu chỉ muốn tiếp nhận những giá trị
vật chất mà khước từ những giá trị tinh thần tiến bộ của phương Tây, th́ đấy là
biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng sống sượng. Chính điều này đang làm hại dân
tộc : những cái hay, tiến bộ th́ bị ngăn chặn và phải đứng ngoài. C̣n những cái
tiêu cực, xấu xa th́ đang tràn vào ồ ạt bằng đủ mọi con đường khác nhau, không
sao cản được.
Một điểm nữa là cứ giả sử
nền dân chủ XHCN gấp triệu lần nền dân chủ tư sản đi, nhưng nếu bây giờ có một
nhóm người Việt Nam yêu nước nào đó cũng muốn ra báo Người Cùng Khổ, như nhóm
Nguyễn Ái Quốc đă làm 80 năm về trước ở Paris giữa ḷng nước Pháp TBCN th́ có
được không? Chưa nói đến việc được quyền như CT Hồ Chí Minh và các đồng chí cộng
sản Pháp của ông: họp đại hội Tours giữa ban ngày, tán thành Quốc Tế III với chủ
trương rơ ràng là : Dùng bạo lực để giành chính quyền từ tay giai cấp tư
sản. Nhưng rồi vẫn được an toàn sau đó ? Chẳng lẽ số 1 lại lớn hơn 1 triệu
ư? Chẳng lẽ nền dân chủ ở thế kỷ 21 lại thấp hơn nền dân chủ trong thế kỷ 20 hay
sao? Từ thực trạng đó mà nhiều người dân Việt Nam hôm nay chỉ ao ước làm sao cho
hiến pháp hiện hành có được những giá trị về nhân quyền và dân quyền như Hiến
pháp Việt Nam năm … 1946 ! Bao giờ cho đến … ngày xưa đây ? Chẳng lẽ tŕnh độ
dân chủ của các đại biểu quốc hội khoá X năm 2000 lại thấp hơn của các ĐBQH khoá
I năm 1946 hay sao? V́ vậy có thể nói rằng dân tộc Việt Nam tính cho đến nay,
khi mà thế kỷ 21 đă bước qua, nhưng dân tộc ấy vẫn chưa có tự do, dân tộc ấy vẫn
chưa có công bằng và dân chủ thực sự. Toàn thể dân tộc phải đoàn kết lại cùng
quyết tâm làm th́ mới có được những giá trị thiêng liêng và cao quư ấy.
b) Một trào lưu dân chủ
mới:
Để cho những mùa xuân Việt
Nam đến sớm hơn phải là nỗ lực chung của toàn dân tộc. Bao năm qua có rất nhiều
chiến sỹ dân chủ Việt Nam đă dũng cảm đi đầu kêu gọi những người nắm thực quyền
của ĐCS Việt Nam hăy v́ quyền lợi chung của dân tộc mà thay đổi thực sự về chính
trị. Đa số họ đă bị trả giá với nhiều h́nh thức và mức độ khác nhau: có người bị
quy chụp, quản thúc, cách ly. Có người bị khai trừ, hăm doạ, theo dơi, bắt bớ,
giam cầm,… nhưng đội ngũ ấy đă không chùn bước. Ngược lại đă phát triển ngày
càng đông để trở thành một lực lượng chính trị thực sự. Bởi v́ họ có cơ sở lư
luận vững chắc và khoa học. Họ đang ngày càng được nhân dân Việt Nam ở cả trong,
ngoài nước cùng thế giới tiến bộ biết đến và hết ḷng ủng hộ, bảo vệ.
Theo tôi nếu xét về những
mục tiêu cần hướng tới của một nước Việt Nam mới, th́ hầu hết các lực lượng dân
chủ đều đă đạt được sự đồng thuận cao. Đây là một thuận lợi rất lớn và rất cơ
bản. Nhưng nếu xét về cách làm để đạt được chúng th́ lại có những điểm khác
biệt, đôi khi cũng rất lớn. Điều này cũng là b́nh thường bởi tính đa nguyên vốn
có của cuộc sống. Ở phần này tôi xin mạnh dạn viết ra những suy nghĩ của ḿnh,
nó có những điểm giống và cũng có những điểm khác so với những ǵ đă có từ trước
tới nay. Nhưng dù là khác th́ rất mong quư vị độc giả hiểu cho rằng : ḷng kính
trọng cùng sự ngưỡng phục của tôi đối với các chiến sỹ dân chủ Việt Nam cả hữu
danh hay c̣n đang thầm lặng là luôn trọn vẹn, trước sau như một. Đó là những
t́nh cảm xuất phát từ đáy ḷng ḿnh.
- Những điểm giống nhau là:
chúng ta vẫn cùng nhân dân kiên quyết đấu tranh để yêu cầu các cấp đảng, chính
quyền Việt Nam tôn trọng những điều đă được ghi rơ trong hiến pháp hiện hành,
trong các hiến chương, tuyên ngôn, công ước quốc tế mà Việt Nam đă kư kết, nhưng
nay vẫn bị vi phạm kéo dài và thường trực . Để hỗ trợ tốt hơn, chúng ta có thể
đề nghị với các nhà lănh đạo Việt Nam hăy cho phép các phương tiện thông tin đại
chúng phổ biến rộng răi bản Tuyên Ngôn Toàn Thế Giới Của Liên Hiệp Quốc Về
Nhân Quyền năm 1948 mà Việt Nam đă cam kết tôn trọng. Chứ nếu kư xong lại
mang về cho vào tủ khoá kỹ lại, rồi tự ḿnh nghĩ ra cách riêng để "làm nhân
quyền" với nhân dân th́ không ai có thể chấp nhận được. Điều mà dân tộc cần là
những giá trị nhân quyền đă được quốc tế hóa, chứ không phải là "Việt Nam hóa"
những giá trị ấy như bao nhiêu năm qua. Cả nước có trên 500 tờ báo nhưng ít báo
nào đăng lại đầy đủ nó. Hệ thống phát thanh, truyền h́nh cũng hiếm khi nhắc đến
hoặc nếu có th́ thường là để tố cáo những người khác, nước khác vi phạm! Chính
sự khiếm khuyết này đă làm cho người dân Việt Nam thiếu hẳn đi cơ sở pháp lư đấu
tranh, khi nhân quyền của họ bị chà đạp. Chẳng hạn điều 19 của Bản tuyên ngôn
trên có ghi: "Mọi người đều có quyền tự do tư duy và ngôn luận. Quyền này bao
gồm quyền không bị gây khó khăn v́ quan điểm của ḿnh và quyền được t́m kiếm,
thu nhận và quảng bá tin tức, ư kiến qua mọi phương tiện truyền thông và qua mọi
biên giới". (xem website: http://www.lmvntd.org/dossier/tnqtnq.htm.)
- Những điểm khác nhau là:
theo tôi có cái ǵ đó không ổn về cách thức đấu tranh. Ví dụ như đ̣i hủy
bỏ điều 4 hiến pháp hiện hành, trong đó quy định ĐCS Việt Nam là lực lượng chính
trị duy nhất lănh đạo đất nước. Tất nhiên với một quốc gia đă có nền dân chủ
đích thực th́ hiến pháp của họ sẽ không bao giờ có điều nào tương tự như vậy, và
chúng ta phải đấu tranh đến cùng để nó không c̣n nữa. Nhưng có điều là với những
nét đặc thù Việt Nam, cũng khó có ǵ để bảo đảm rằng nó sẽ được đa số nhân dân
mong muốn và ủng hộ? Chúng ta chỉ mới có cảm tính là như vậy thôi. Tất cả
vẫn chưa được định lượng cụ thể, chưa thật sự lấy dân làm gốc trong cách
làm.
Tương tự với những vấn đề
khác như : yêu cầu tổ chức một cuộc Bầu cử tự do có quốc tế giám sát, muốn đổi
tên nước, quốc kỳ, quốc ca. Muốn tách sự lănh đạo của Đảng ra khỏi quân đội,
công an, v.v… Chính những sự khác nhau ấy đă nảy sinh ra nhiều cuộc tranh luận,
có khi trở thành tranh căi làm tiêu hao biết bao thời gian, sức lực và ḷng
nhiệt t́nh của nhau, mà đa số đều là những người có tâm huyết với đất nước và
dân tộc. Thậm chí có một số người "chém thớt" lại c̣n nhiệt t́nh và hiệu quả hơn
là "chém cá"! Để rồi t́nh trạng "Tọa sơn quan hổ đấu" đă diễn ra, nhiều người
trong số "quan hổ đấu" kia đă chuyển từ "múa tay trong bị" ra "múa tay ngoài
bị", bởi v́ họ đă "Bất chiến tự nhiên thành".
Ngay cả đối với bạn bè quốc
tế, những người thường xuyên quan tâm đến t́nh h́nh Việt Nam cũng vậy : tuy đều
mong muốn thúc đẩy tiến tŕnh dân chủ cho Việt Nam tiến lên phiá trước, nhưng
mỗi người khác nhau cũng có những nhận thức và hành động khác nhau. Nếu chỉ v́
sự khác nhau ấy mà chúng ta lại đi phê phán hay chỉ trích họ sẽ làm phân hóa các
lực lượng dân chủ Việt Nam, trên cả b́nh diện quốc gia và quốc tế. Trong khi hơn
lúc nào hết vấn đề đoàn kết lúc này là rất quan trọng và rất cần thiết. Nó là
sức mạnh và nó cũng là lực lượng.
4.2 - Một ư
kiến đề nghị :
Từ những tŕnh bày trên tôi
xin được đề nghị một ư kiến sau : Giữ nguyên bộ máy hiện có ở Việt Nam hiện
nay, bao gồm tất cả các cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp từ trung ương
xuống địa phương, cơ sở để tổ chức một cuộc TRƯNG CẦU DÂN Ư đầu tiên của nước
Việt Nam thống nhất. Câu hỏi cần trả lời là: Việt Nam nên hay không nên theo chế
độ đa đảng? Nếu ai cho rằng nên th́ ghi CÓ - không nên th́ ghi
KHÔNG.
Đây chính là công việc nhằm
định lượng hoá ḷng dân Việt Nam. Nó không đ̣i ai cái ǵ mà chỉ đề nghị một cách
làm là hăy hỏi ư kiến nhân dân về một vấn đề lớn và rất bức xúc của đấùt
nước hiện nay.
Cũng có thể có những câu
hỏi khác, với những yêu cầu khác cao hoặc thấp hơn. Nhưng theo tôi yêu cầu trên
là trung b́nh, mà nếu đạt được th́ nó sẽ tạo cơ sở tốt cho những bước dân chủ
tiếp theo. Tuy là trung b́nh nhưng nó cũng đủ tầm mức quan trọng cho một cuộc
Trưng Cầu Dân Ư(TCDY). Tất nhiên theo đúng tinh thần đa nguyên và nguyên tắc đa
số. Tôi sẵn sàng ủng hộ cho một câu hỏi khác thích hợp hơn, miễn là nó được đa
số dân tộc ủng hộ. Sau đây là phác họa một số nét lớn của nó :
- Thành lập một Ủy Ban Quốc
Gia Trưng Cầu Dân Ư (UBQG về TCDY), mà bước đầu có thể là một Ban trù bị.
- Thành phần của ủy ban bao
gồm cả những đảng viên cộng sản và người ngoài đảng. Tỷ lệ chẳng hạn là 50/50,
trong đó có đầy đủ đại diện của các tầng lớp, giai cấp, tôn giáo, sắc tộc, vùng,
miền,… trong cả nước và đại diện cho các cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài gần 3
triệu người. Bởi v́ đây là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc, hơn nữa
rất nhiều người trong số họ c̣n mang quốc tịch Việt Nam. Tuy uỷ ban cần bảo đảm
đầy đủ các thành phần được nêu trên nhưng cũng không nên quá cồng kềnh, h́nh
thức. Điều này Ban trù bị sẽ quyết định cụ thể. Các thành viên trong uỷ ban phải
là những người thực sự có tinh thần dân chủ, có năng lực làm việc và có đủ sức
khoẻ.
- Sau khi được thành lập,
UBQG về TCDY sẽ tiến hành các công việc chuẩn bị như : xây dựng điều lệ, phương
án hoạt động, nội dung tuyên truyền trong nhân dân cả nước về mục đích, ư nghĩa
của công việc này, trong đó kể cả việc thành lập các ủy ban TCDY ở địa phương và
cơ sở. Thời gian thành lập UBQG TCDY cần được tổ chức càng sớm càng tốt. Tinh
thần là không nên quá nóng vội, nhưng cũng không nên quá chậm chạp. Giả sử cuộc
TCDY trên được tổ chức sẽ có hai khả năng sau đây :
a) Nếu đa số phiếu trả lời
là KHÔNG th́ ĐCS Việt Nam sẽ tiếp tục nắm quyền lănh đạo đất nước, cho đến khi
nào nhân dân thấy cần thiết là nên có một cuộc TCDY mới.
b) Nếu đa số phiếu trả lời
là CÓ th́ ĐCS Việt Nam cần phải chấp nhận kết quả ấy. Hiến pháp hiện hành cũng
phải được Quốc hội sửa đổi, bổ sung và thông qua những điểm liên quan, sao cho
phù hợp với t́nh h́nh của đất nước sẽ có nhiều đảng hoạt động trong tương lai.
ĐCS Việt Nam cũng vẫn tiếp tục nắm quyền lănh đạo đất nước cho đến khi có một
đảng nào đó tỏ ra xứng đáng hơn và giành được chiến thắng trong một cuộc Bầu
cử tự do. Bằng cách này đất nước cũng sẽ tránh được những khoảng trống quyền
lực của một cuộc khủng hoảng tiềm tàng. Mọi sự phát triển đều có tính kế thừa,
tuần tự trong khuôn khổ pháp luật.
Tôi tin rằng nếu cuộc TCDY
như vậy được diễn ra, nhất định thế giới tiến bộ sẽ nhiệt t́nh ủng hộ Việt Nam.
Nhưng chúng ta chỉ cần bạn bè giúp đỡ về mặt kỹ thuật, v́ Việt Nam chưa có kinh
nghiệm. Chẳng hạn như nước Úc hào hiệp đă từng tổ chức 45 lần TCDY từ ngày thành
lập liên bang (1901) đến nay. Trong đó người dân Úc chỉ 8 lần bầu có và 37 lần
bầu không cho những câu hỏi. Tất cả những việc c̣n lại, với một luồng dân khí
mới, tôi tin rằng chúng sẽ được tiến hành tốt đẹp.
Một môi trường chính trị
lành mạnh sẽ có một môi trường kinh tế - xă hội trong sạch, kể cả môi trường đầu
tư. Lúc ấy nó mới có khả năng kết hợp được sức mạnh tổng hợp của dân tộc với sức
mạnh của thời đại. Đưa đất nước ta cất cánh. Nó c̣n có tác dụng ngăn chặn và xử
lư tốt những nhà đầu tư nào có mưu đồ làm bậy và mở đường cho các ngành khoa học
xă hội, khoa học quản lư tiến lên .
Mặt khác nó c̣n có tác dụng
đẩy nhanh tiến tŕnh ḥa giải và ḥa hợp dân tộc. Muốn vậy, chỉ có cách là phải
cải thiện thực sự chế độ chính trị hiện nay, thông qua những cách làm dân chủ
mang tầm vóc toàn dân tộc.
Trên đây chỉ là một ư
kiến phác thảo cho một cách làm. Nó chỉ có thể trở thành một phương
án có tinh khả thi nếu được được đa số dân tộc ủng hộ. Tôi rất mong bạn đọc
xa gần chia sẻ cùng tôi ư kiến này.
Tuy TCDY vẫn c̣n xa lạ với
nhiều người Việt Nam, nhưng nó đă là một sinh hoạt chính trị quen thuộc trên thế
giới hàng thế kỷ qua. Ngay ở miền Nam Việt Nam vào ngày 23/10/1955 dưới thời của
thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm cũng đă có một cuộc TCDY được tổ chức, nhằm lựa chọn
giữa nền Quân chủ hay nền Cộng ḥa. Kết quả sau đó là nền Đệ Nhất Cộng Ḥa của
miền Nam đă ra đời, với việc truất phế ngôi Quốc trưởng của cựu hoàng Bảo Đại và
thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm lên làm tổng thống. Ở đây tôi không có ư nhắc tới khiá
cạnh chính trị của vấn đề, mà chỉ quan tâm đến mặt kỹ thuật của nó, (v́ khía
cạnh chính trị này rất nhạy cảm và dễ gây ra những tranh luận không cần thiết
lúc này). Nếu ai đó có kinh nghiệm hoặc bất cứ kiến thức ǵ liên quan, xin hăy
nhiệt t́nh đóng góp v́ lợi ích chung của đất nước.
Có thể có những ư kiến xung
quanh vấn đề này như sau:
a - Cơ sở kinh tế - xă hội của cuộc Trưng Cầu Dân
Ư?
b -Nếu vẫn giữ nguyên bộ máy hiện có ở Việt Nam th́ lấy ǵ để bảo đảm cho
sự khách quan, vô tư ?
c - Liệu ĐCS Việt Nam có chấp nhận hay không ?
v.v…
Tôi sẽ cố gắng giải đáp chúng ở mức độ cao nhất có thể và cũng mong quư
độc giả cùng làm giàu thêm và chính xác hơn cho nó.
a - Cơ sở kinh tế - xă
hội:
Như chúng ta biết th́ nền
kinh tế ở Việt Nam hiện nay thực chất đă là nền kinh tế nhiều thành phần, tất cả
đều đă được bảo đảm bằng luật pháp hiện hành. Như vậy tính đa nguyên
trong xă hội đă có cơ sở vững chắc từ chính bản thân của nền kinh tế ấy. Từ đó
xuất hiện những người cùng chung chí hướng, tư tưởng. Họ có nhu cầu tập hợp lại
dưới một chính đảng có cùng tôn chỉ mục đích, được pháp luật công nhận. Nhu cầu
ấy là hoàn toàn chính đáng. Nó cũng phù hợp với tinh thần của những bản tuyên
ngôn, hiến chương, công ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam đă kư kết.
Đó chính là cơ sở cho sự đa
đảng, trong một xă hội đă có sự đa nguyên.
Sẽ thật là vô lư nếu như ở
dưới th́ cứ "chia ra", c̣n ở trên th́ cứ "hội tụ" măi như thực tế Việt Nam hôm
qua và hôm nay được.
Cũng cần lưu ư là: vào giai
đoạn đầu nếu có sự đa đảng th́ t́nh h́nh có thể sẽ tương tự như ở các nước Đông
Âu, Liên Xô cũ 10 năm về trước. Tức là sẽ có nhiều đảng ra đời, nhưng cùng với
sự sàng lọc của thời gian, con số này sẽ giảm xuống.
b - Sự bảo đảm cho tính
khách quan, vô tư ?
Cội nguồn của sự ưu tư này
có nguyên nhân lịch sử của nó. Nhưng theo tôi có 3 cơ sở sau đây để tin tưởng:
- Thứ nhất là do tính đa
dạng và phẩm chất tốt của các thành viên trong UBQG TCDY. Nó sẽ là một cơ sở tốt
để tạo ra một cơ chế làm việc thực sự dân chủ, từ đó cũng sẽ có những cách thức
để các thành viên trong ủy ban kiểm tra chéo công việc của nhau, v́ lợi ích
chung của quốc gia.
- Thứ hai là cuộc TCDY này
chỉ bầu một nguyên tắc, chứ không bầu những con người cụ thể, như trong
các cuộc bầu cử thông thường rất có thể sẽ bị nhiễu loạn thông tin mà quyết định
sai đi. Tức là cử tri chỉ đi bầu CÓ hay KHÔNG cho một câu hỏi. V́ vậy nếu có ai
đó muốn đánh tráo cái "nỏ" giả của cha con Triệu Đà, Trọng Thủy lấy chiếc nỏ
thật của thần Kim Quy cũng khó mà thực hiện được mưu đồ. Không ai lại tự đi làm
nhiễu loạn chính ḿnh cả. Nó cũng tương tự như hai cuộc TCDY năm 1999 vừa qua đă
diễn ra trên thế giới :
Ở Úc với câu hỏi: nước Úc
nên hay không nên trở thành một nước Cộng ḥa ?
Và ở Đông Timor với câu hỏi:
Đông Timor chọn nền Độc lập hay tiếp tục phụ thuộc vào Indonesia ? (Kết quả như
chúng ta đă biết: nước Úc bầu KHÔNG cho nền cộng ḥa và Đông Timor bầu CÓ cho
nền độc lập.).
- Thứ ba là vai tṛ kiểm
soát và giám sát của nhân dân : Có thể ví rằng bao nhiêu người dân sẽ là bấy
nhiêu những ngọn đèn đứng gác, sẵn sàng soi rọi vào những ư đồ đen tối nếu có
nào đó.
c - Liệu ĐCS Việt Nam có
chấp nhận hay không ?
Nói chính xác hơn là liệu
những người nắm thực quyền hiện nay trong ĐSC Việt Nam có chấp nhận hay không ?
Theo tôi đây chính là vấn đề nan giải nhất và cũng đoán rằng nó được nhiều người
quan tâm nhất. Để trả lời câu hỏi này chúng ta cần trở lại với lịch sử: một điều
có thể khẳng định rằng trong suốt 55 năm qua, kể từ ngày tuyên bố độc lập, khai
sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Chưa có một lần nào CT Hồ Chí Minh và
những người lănh đạo trong ĐCS Việt Nam sau ông, có ư định hỏi nhân dân Việt Nam
xem liệu họ muốn hay không muốn đất nước đi theo con đường XHCN.
Đă có những cột mốc lịch sử
lớn để làm điều này, nhưng tất cả đều đă bị né tránh không làm. Đó là: - Ngày 2
tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đ́nh - Hà Nội, trong toàn bộ nội dung của
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập là không hề có một câu nào về CNXH hay CNCS cả. Cũng
không có một chữ nào về quyền lănh đạo đất nước của ĐCS Việt Nam. Lời thề của
hơn nửa triệu nhân dân Hà Nội và các vùng phụ cận, thay mặt cho nhân dân cả nước
hô vang trong buổi chiều hôm ấy là lời thề ĐỘC LẬP! Nếu có một lần CT Hồ Chí
Minh dừng lại hỏi nhân dân, th́ đó là câu hỏi:"Tôi nói đồng bào nghe rơ không
?" mà thôi, tuyệt đối không phải là một câu hỏi nào khác .
Có ư kiến cho rằng: nhưng
hôm đó đồng bào cả nước đều đă đi mít tinh và nhiều người đă giương cao lá cờ đỏ
sao vàng, là lá cờ của nước Việt Nam XHCN sau này đấy thôi. Điều đó chẳng đă
chứng minh sự ủng hộ của nhân dân cho CNXH rồi là ǵ ! Đúng chuyện vẫy cờ là có
thật. Nhưng đấy là lá cờ mà dân tộc lúc ấy coi nó có ư nghĩa như một biểu tượng
cho nền độc lập quốc gia c̣n non trẻ, vừa mới giành lại được sau gần một trăm
năm dưới ách nô lệ của Thực dân, Phát xít. Rằng : "Nước Việt Nam của người Việt
Nam!", "Độc lập hay là chết!". Dân tộc đă ủng hộ lá cờ ấy, vào những khoảnh khắc
lịch sử ấy là theo những ư nghĩa ấy mà thôi. Sau này dân tộc sẽ đi theo con
đường nào th́ những người lănh đạo quốc gia phải hỏi ư kiến của họ!
- Những cột mốc quan trọng
khác nữa như : tháng 10 năm 1954 có nhiều đồng bào miền Bắc đă đón chào Chính
Phủ Kháng Chiến của CT Hồ Chí Minh, cùng đoàn quân chiến thắng trở về, sau chiến
dịch Điện Biện Phủ. Nhưng trong những khẩu hiệu được giăng lên hoặc hô vang,
cũng không có một câu chữ nào về CNXH hay CNCS cả. Dĩ nhiên lại càng không có
một cái ǵ đó tương tự với đồng bào miền Nam vào những ngày tháng 3, tháng 4 năm
1975. Ai không tin điều này xin xem lại những thước phim tài liệu hiện c̣n lưu
giữ ở trong nước hoặc đọc lại Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm xưa.
Khi c̣n sống CT Hồ Chí Minh
cũng đă từng một lần ủng hộ cho cách làm này. Đó là khi ông thay mặt cho Chính
Phủ Liên Hiệp nước Việt Nam DCCH kư Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 với đại diện
của Chính Phủ Pháp tại Hà Nội lúc ấy là tướng Xanh-tơ-ni (Jean Saiteny). Một
điều khoản trong hiệp định đó đă xác định: Việt Nam chấp thuận nằm trong Liên
Bang Đông Dương thuộc khối Liên Hiệp Pháp, và Nam Bộ có trở về với Việt Nam
hay không sẽ thông qua một cuộc trưng cầu dân yù. Trước ngày toàn quốc kháng
chiến 19/12/1946 ông cũng nhắc lại điều này tại điểm 4 trong lời kêu gọi gửi
Liên Hiệp Quốc, nhằm tố cáo phía Pháp vi phạm hiệp định trên. (Hồ Chí Minh toàn
tập - tập 4 - NXB chính trị quốc gia Hà Nội 1995, trang 467).
Ở đây tôi không có ư nhận
xét ǵ về tư tưởng Hồ Chí Minh (nếu ông có). Tôi cũng luôn tôn trọng những người
lương thiện vốn tôn kính hoặc thần tượng ông. Nhưng chỉ có ư kiến rằng : nếu ai
đó vẫn quan niệm rằng "Thế giới c̣n biến đổi nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh c̣n sống
măi" th́ theo tôi, một trong những việc làm để họ tỏ ḷng tôn kính ông chính là
ủng hộ cho một cuộc TCDY như trên được diễn ra. V́ đây là một cách làm dân chủ,
mà CT Hồ Chí Minh cũng đă muốn làm hơn nửa thế kỷ trước. Nhưng v́ tấm ḷng quá…
yêu thuộc địa cũ lúc ấy của người Pháp nên đă không được thực hiện. Ngược lại,
ai đó cứ "Giữ ǵn và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh" theo cách: cái ǵ có lợi cho
ḿnh th́ đưa ra dùng, c̣n nếu bất lợi th́ phớt lờ hoặc giấu nhẹm đi là rất thiếu
tử tế với nhân dân. Đồng thời, chính họ đă xúc phạm tới vong linh của CT Hồ Chí
Minh.
Cũng lại có ư kiến cho rằng
: nhưng sau đó các Nghị quyết đại hội Đảng III năm 1960 và ĐH IV năm 1976, đều
đă xác định rơ con đường đi lên CNXH. Rồi lại có những cuộc mít tinh ủng hộ của
nhiều tầng lớp nhân dân cho thành công của các đại hội trên là ǵ! Cũng đúng là
có như vậy thật, nhưng đấy chắc ǵ đă là đa số và thực chất ? Hơn nữa thử hỏi
nhân dân c̣n có sự lựa chọn nào khác một khi mà chính quyền cách mạng đă được
thiết lập, nền chuyên chính vô sản đă được củng cố với chức năng thứ nhất của nó
là: bạo lực và trấn áp ! Điều này đă được Lê Nin căn dặn rất kỹ lưỡng
trong tác phẩm Nhà Nước Và Cách Mạng của ông. Mít tinh ủng hộ th́ được, nhưng
thử biểu t́nh phản đối xem điều ǵ sẽ xảy ra ? Bất cứ người dân Việt Nam nào dù
là thờ ơ với gông cùm, xiềng xích nhất cũng có thể trả lời được câu hỏi này.
(Một điểm nữa để thấy rơ hơn : nếu so sánh mức độ cự tuyệt CNXH của đồng bào
miền Nam, ta sẽ thấy là mạnh hơn nhiều so với đồng bào miền Bắc. Đơn giản là v́
tuy nền dân chủ ở miền Nam trước năm 1975, vẫn chưa phải là một nền dân chủ đích
thực nhưng nó đă có mầm mống. C̣n đồng bào miền Bắc sau năm 1954 là không có ǵ
tốt hơn để so sánh, ngoài chế độ thực dân, nửa phong kiến trước tháng 8/1945 của
những kiếp người dân nô lệ. Với cái đói kinh hoàng năm Ất Dậu .).
V́ vậy có thể nói rằng:
Trong suốt 55 năm qua kể từ ngày 2.9.1945 đến nay, trước dân tộc, ĐCS Việt
Nam vẫn luôn là tự xướng danh chứ không chính danh ! Nếu muốn chính danh th́
ĐCS Việt Nam cần phải thắng trong một cuộc Bầu cử tự do. Khi đất nước đă có
những lực lượng chính trị khác ra tranh cử. Một cuộc TCDY như trên sẽ là bước
khởi đầu quan trọng.
Tổng bí thư ĐCS Việt Nam Lê
Khả Phiêu cũng đă có lần tuyên bố: "Sẽ bảo vệ sự độc quyền lănh đạo của đảng
cộng sản, sẽ duy tŕ định hướng XHCN. Những người khuyên nên từ bỏ CNXH và vai
tṛ lănh đạo của ĐCS là sai lầm, v́ đây là sự chọn lựa của nhân dân và của lịch
sử ". Theo tôi ông sẽ đúng nếu như cuộc TCDY trên được diễn ra và đa số
nhân dân từ chối có sự đa đảng ở Việt Nam.
Trường hợp xấu nhất nếu
cuộc TCDY bị khước từ th́ trước dân tộc ĐCS Việt Nam vẫn là không chính danh.
Lúc ấy toàn bộ sự thật đă được bóc trần đến cực độ là: Những người nắm thực
quyền trong ĐCS Việt Nam, do lo sợ thất bại trước một luật chơi hoàn toàn công
bằng và dân chủ, nên đă khước từ nó v́ duy nhất quyền lợi của bản thân và gia
đ́nh họ. Họ chỉ là số ít chứ không phải là số nhiều. Họ vừa tự cô lập ḿnh, vừa
bị nhân dân Việt Nam cùng các lực lượng dân chủ trên thế giới khép chặt ṿng
vây, để danh sách của họ ngày càng ngắn lại và lộ dần ra. Họ thực sự là những
người đă và đang ra sức t́m mọi cách, dù là tuyệt vọng để ngáng đường dân tộc
muốn đi. Họ không có cơ sở để tồn tại cả về lư luận và thực tiễn, trừ súng đạn.
Họ là phi nghĩa. Họ không nên cứ nhắc đi nhắc lại măi câu nói của CT Hồ Chí Minh
40 năm về trước "Đảng ta là đạo đứùc, là văn minh" nữa. Họ giống những
Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống ở chỗ là cùng bán nước. Chỉ khác là những kẻ kia
th́ bán trọn gói một lần. C̣n họ th́ t́m cách câu giờ, xé dần đất nước ra để bán
lẻ và bán rẻ mà thôi!
Dĩ nhiên họ không phải là
tất cả hơn 2 triệu đảng viên cộng sản, cũng không phải là toàn bộ 170 UVTW Đảng
hiện nay. Mà chỉ là một thiểu số bảo thủ nắm thực quyền cùng những kẻ bấu xấu,
lươn lẹo, ăn theo, nói leo. (số này không hẳn đă là ĐVCS, t́nh h́nh đất nước
cùng những vụ án lớn vừa qua đă chứng minh rơ điều này.). Họ cần phải bị vạch
mặt, chỉ tên, cần những người có lương tri hoặc công khai tố cáo, hoặc âm thầm
sao chụp, lưu giữ những hồ sơ tội ác mà họ đă, đang hoặc sẽ làm. Để trong tương
lai đưa ra xét xử công khai, đúng pháp luật như các nước Đức thống nhất, Chi lê,
Nam Hàn, Philippines, Indonesia, ... đă và đang làm. Dù họ là ai, tuổi tác thế
nào, từng nắm chức vụ ǵ đi chăng nữa .
Và cuộc đấu tranh cho một
nước Việt Nam mới của toàn dân, trong đó có rất nhiều những đảng viên cộng sản
chân chính sẽ vẫn c̣n tiếp diễn cho đến khi nào đạt được thắng lợi cuối cùng mới
thôi. Một trong những khẩu hiệu đấu tranh trong giai đoạn mới có thể sẽ xuất
hiện là:
"Nhân dân Việt Nam cần một nền dân
chủ thật sự.
Nhân dân Việt Nam không cần thứ dân chủ một triệu lần bịp bợm".
Với sự kiên tŕ, ḷng quyết
tâm của khối đoàn kết toàn dân, được sự ủng hộ quốc tế, lại có chính nghĩa và
phương pháp đúng đắn. Chắc chắn cuộc đấu tranh v́ tự do dân chủ cho Việt Nam sẽ
giành được thắng lợi hoàn toàn, trừ khi:
Nếu mọi người tốt đều lặng im
Giữ
nguyên bàn tay sạch
(thơ Lưu Quang Vũ)
Nhưng tôi tin rằng điều đó
sẽ không xảy ra, bởi v́ cái tốt nhất định cuối cùng phải thắng cái xấu, cái
thiện phải thắng cái ác, chính nghĩa phải thắng phi nghĩa và trí nhân phải thay
cho cường bạo. Lịch sử dân tộc Việt Nam ta và thời đại ngày nay đă chứng minh
rất rơ những điều đó. Và cũng bởi v́: "Chỉ có súc vật mới thờ ơ với những nỗi
đau của đồng loại để chăm sóc cho bộ da của ḿnh!". (lời của Mác)
5 - Vấn đề đoàn kết dân
tộc - những niềm tin tưởng.
Trong những phần trên thỉnh
thoảng tôi cũng chen vào đâu đó một vài điểm tạm gọi là có tính cười cũng không
ngoài mục đích muốn làm rơ hơn những nội dung mà ḿnh cần tŕnh bày và cũng để
cho bạn đọc khỏi buồn ngủ! Thực tế khi đi t́m tài liệu cũng như khi ngồi viết
bài này, đă hơn một lần dù cố gắng tự kiềm chế nhưng tự nhiên mắt mũi tôi cứ cay
cay. Những lúc ấy nếu là đang viết tôi phải dừng lại để cho cơn xúc động qua đi.
Đúng! Số phận đau thương
của dân tộc ta trong hơn nửa thế kỷ qua không có ǵ đáng vui để mà cười cả. Nỗi
đau ấy vẫn đeo đẳng dân tộc đến tận hôm nay dứt măi chưa ra. Nếu như trước kia
là những nỗi đau của sự mất mát, chia ly thời chiến tranh, th́ nay là những áp
bức và bất công, đói nghèo và tủi nhục của thời hoà b́nh. Nhưng tôi hoàn toàn
tin tưởng có cơ sở rằng một ngày không xa nhất định mùa đông và mây mù sẽ tan
trên quê hương Việt Nam. Cơ sở của ḷng tin ấy là: t́nh tự dân tộc và tính
nhân bản của con người Việt Nam sẽ dần được phục hồi và chiến thắng tất cả.
Nó sẽ vượt lên trên mọi cái
ác, nó lấp bằng mọi hố sâu ngăn cách của quá khứ chính trị, hoàn cảnh xuất thân,
sự giàu - nghèo, tôn giáo, sắc tộc, tŕnh độ, tuổi tác, vùng, miền… để đoàn kết
muôn triệu người Việt Nam ở cả trong và ngoài nước thành một khối vững bền. Nó
băng qua mọi khó khăn, thử thách để tiến lên giành thắng lợi bằng con đuờng dân
chủ, nhằm xây dựng một nước Việt Nam mới với các mục tiêu: Hoà b́nh và độc lập,
dân chủ và tự do, dân giàu và nước mạnh, công bằng và văn minh, đoàn kết, hữu
nghị và tiến bộ xă hội.
Chỉ có khi ấy dân tộc Việt
Nam mới có thể ngẩng cao đầu để làm bạn với tất cả mọi người. Chỉ có khi ấy
những nụ cười trong niềm vui đoàn viên toàn dân tộc mới thật sự đến. Và cũng để
cho những con người Việt Nam đang yêu có thể yêu như những lời tâm sự của chàng
RốtSin với nàng Cachia: "Rồi năm tháng sẽ trôi đi, những cuộc chiến tranh sẽ
chấm dứt, những cuộc cách mạng sẽ thôi gào thét, chỉ c̣n lại tấm ḷng em dịu
dàng, nhẫn nại và tràn đầy t́nh yêu thương là măi măi không phôi pha."
(trích trong bộ tiểu thuyết Con Đường Đau Khổ của văn hào Nga A.Tolstoi.).
Chúng ta đă thấy t́nh dân
tộc được thể hiện thật cảm động trong cơn băo lụt cuối năm 1999 vừa qua. Đó là
tinh thần "lá lành đùm lá rách", cả nước hướng về đồng bào miền Trung ruột thịt,
giúp nhau trong cơn nguy khó. Trong đó có những trường hợp phải nói chính xác
hơn là "lá rách đùm lá tả tơi" mới đúng. Đặc biệt hơn chúng ta thấy có những
đoàn cứu trợ của đồng bào ta từ nước ngoài về đă đến với các nạn nhân thuộc tỉnh
Quảng B́nh. (những người trong thời kỳ chiến tranh đă sống ở bờ Bắc của con sông
Bến Hải, với cây cầu Hiền Lương lịch sử chia đôi đất nước). Mặc dù rất nhiều
người trong số họ đă từng là nạn nhân đau khổ của chế độ cộng sản.
Chúng ta cũng thấy đại tá
QĐND Việt Nam Phạm Quế Dương cùng một số người khác, đă cố gắng t́m được hài cốt
của trung tá Phạm Phú Quốc - phi công thuộc quân lực Việt Nam Cộng Hoà, sau hơn
30 năm máy bay của ông bị rơi trên bầu trời Hà Tĩnh. Và cả những tấm ḷng nhân
hậu của các má, các chị ở Sài G̣n, đă tự động đứng ra tổ chức những bữa ăn phát
không cho bệnh nhân nghèo đang nằm viện. Các chị hiện công tác tại trại tạm giam
Hà Nội lại phải đảm nhận thêm việc chăm sóc các cháu bé là con của những phạm
nhân nữ, do nhiều hoàn cảnh éo le khác nhau cũng phải vào tù ở với mẹ. Ngoài ra
c̣n rất nhiều những tấm gương khác nữa mà trong một bài viết không thể liệt kê
ra hết được.
Có lần tôi được nghe một
cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh SBS của Úc - chương tŕnh Việt ngữ giữa một
phóng viên với nhạc sỹ Nguyễn Đ́nh Toàn hiện đang định cư tại Mỹ : sau năm 1975
cũng như hàng trăm ngàn công chức, sỹ quan khác của chế độ Việt Nam Cộng Ḥa,
ông phải đi học tập cải tạo và mới rời nước vài năm gần đây, nhưng nay th́ ông
tâm sự rằng ông buồn và muốn về lại quê hương, khi được hỏi là về để làm ǵ ?
Th́ ông trả lời rằng về để ... chết, nhưng chết bây giờ là có thủ phạm chứ không
c̣n âm thầm, uất ức như trước nữa! ("Sài G̣n ơi! Ta mất người như người đă
mất tên, như ḍng sông nước cuộn quanh buồn, như người đi cách mặt xa ḷng, ta
nhủ thầøm em có nhớù không? Sài G̣n ơi! Đâu những ngày khi thành phố xôn xao,
trong niềm vui tiếng hỏi câu chào, sáng đời tươi thắm vạn sắc mầu, nay c̣n ǵ
đâu…" - Sài G̣n Niềm Nhớ Không Tên - nhạc sĩ Nguyễn Đ́nh Toàn ).
Không ! Đất nước và dân tộc
vẫn c̣n đó, Sài g̣n cũng vẫn c̣n đó.
Chỉ có ai tự đánh mất ḿnh
rồi đánh mất Sài g̣n, mất đất nước và dân tộc mà thôi. Những người có tấm ḷng
với quê hương như ông lại càng cần cho đất nước và dân tộc hôm nay. Nhất định
một ngày hội lớn của dân tộc sẽ mở ra. Để trong ngày vui chung ấy, 80 triệu
người Việt Nam sẽ cùng nắm tay nhau mà nghẹn ngào trong niềm vui ban đầu của sự
ḥa giải và ḥa hợp dân tộc. V́ ai cũng cảm thấy tự hào rằng trong chiến công
chung ấy đều có phần đóng góp của riêng ḿnh.
Một luồng dân khí mới sẽ
đến với mọi người Việt Nam. Hàng triệu đồng bào ta từ các nước Đông, Tây, Bắc
Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Úc, New zealand, Liên Xô cũ, ... sẽ cùng trở về trong ngày
hội non sông ấy, để cùng với đồng bào ruột thịt của ḿnh ở trong nước hát vang
những bài hát hào hùng đă từng có tác dụng đoàn kết muôn triệu người Việt Nam
năm nào. Đó là Quốc Dân Hành Khúc với tên ban đầu là Tiếng Gọi Sinh Viên của
nhạc sỹ Lưu Hữu Phước :
Nào dân Việt Nam, tiến lên đến ngày
giải phóng !
Đồng ḷng cùng đi ! đi ! đi sá ǵ thân sống
Nh́n non sông nát
tan, th́ nung tâm chí cao
Nh́n muôn dân khóc than, hờn sôi trong máu đào
…
Và của Tiến Quân Ca với
nhạc sỹ Văn Cao :
… V́ nhân dân chiến đấu không ngừng
Tiến mau ra xa trường
Tiến lên ! cùng tiến lên !
Nước non Việt Nam
ta vững bền !
Dù sau đó trong cuộc sống
đời thường anh hát : Biển mặn, Rừng lá thấp, Người ở lại Charlie, Hát cho một
người nằm xuống, Áo lụa Hà Đông, Ngày tạm biệt, Bây giờ tháng mấy, Nỗi ḷng
người đi, Thương về miền Trung, Diễm xưa, Ướt mi, Đêm nhớ về Sài G̣n, Sài G̣n
niềm nhớ không tên, v.v … c̣n tôi hát: Hà Nội niềm tin và hy vọng,Trường Sơn
Đông -Trường Sơn Tây, Việt Nam trên đường chúng ta đi,Tiếng chày trên sóc Bom
bo, Những ánh sao đêm, T́nh ca, Xuân chiến khu, Vàm cỏ đông, Chào em cô gái Lam
hồng, Trước ngày hội bắn, T́nh đất đỏ miền Đông, Mặt trời bé con, Hà Nội mùa
vắng những cơn mưa, v.v… th́ tất cả cũng đều tốt. V́ mỗi người đều có những sở
thích và kỷ niệm vui buồn riêng của ḿnh. "Quốc - Cộng" … đề huề ! Nhưng phải là
có điều kiện khi mà những luật chơi công bằng đă được thực hiện. Nếu như
số phận đă nghiệt ngă với dân tộc ta hôm qua, th́ hôm nay bằng những lá phiếu
của ḿnh dân tộc ấy đă có điều kiện bước đầu để "cải số" cho ḿnh. Đây là một cơ
hội lớn để cả dân tộc có thể tránh được việc phải cùng nhau đi "t́m lá diêu
bông", "uống xuyên tâm liên", v.v... nhưng ít ai dám khóc lớn, mà chỉ dám khóc
thầm.
Bạn bè thế giới cũng sẽ đến
chung vui cùng chúng ta, họ sẽ thật sự khâm phục chiến công này của dân tộc ta,
hơn bất cứ một chiến công dân chủ nào mà dân tộc ấy đă đạt được trong suốt chiều
dài lịch sử của ḿnh. Nó chứng tỏ rằng dân tộc Việt Nam đă đủ trưởng thành cả về
tŕnh độ dân chủ và dân trí. Nó sẽ kết hợp với luồng dân khí mới để cùng bắt tay
vào xây dựng một đất nước Việt Nam mới, từ điểm xuất phát là diễn biến ḥa
b́nh, chứ không phải diễn biến chiến tranh hoặc bạo loạn. Một dân tộc thông
minh phải là một dân tộc như vậy. Và cũng bởi v́ sau những đau thương mất mát
quá lớn lao, có lẽ không có người Việt Nam nào lại muốn đất nước ḿnh tiếp tục
rơi vào khủng hoảng, hỗn loạn thêm một lần nữa, để rồi:
10 phần chết 7 c̣n 3
Chết 2 c̣n 1
mà vẫn ... chưa ra thái b́nh !
Nếu những ai c̣n có ư định
cổ vũ cho bạo lực họ chính là tội phạm của dân tộc, dù ho có bao biện bởi bất cứ
lư do nào đi chăng nữa. Thế giới văn minh, luật pháp quốc tế cũng đă từ lâu
chống lại điều này.
Tôi đă cố gắng tŕnh bày
hết cả 5 phần được nêu ra từ đầu của bài viết này. Tôi viết nó một ḿnh chứ
không hề "câu kết với các thế lực thù địch" nào. Tôi không phải là một người cầm
bút chuyên nghiệp nên viết rất vất vả. Tôi có công việc chuyên môn của ḿnh và
tôi yêu thích nó. Giả sử sau này có phải xa nó th́ tôi cũng sẵn sàng làm bất cứ
công việc nào khác, miễn là lương thiện để sinh sống. Tôi cũng có may mắn hơn
nhiều người Việt Nam khác, v́ không phải là nạn nhân của chế độ nào.
Xong như ông bà ta thường
nói: "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách", nếu tôi là một thợ
cầy, thợ cấy, thợ ḷ, thợ mỏ. Một sinh viên, một người lính, một cảnh sát hay
một người đă nghỉ hưu b́nh thường mà để cho quốc gia của ḿnh suy vong như hiện
nay th́ tôi đă rất đáng trách. Nhưng nếu anh lại tự cho ḿnh là thuộc "tầng lớp
sỹ phu" Việt Nam mà cứ im lặng măi. Hoặc tệ hại hơn là lợi dụng t́nh trạng lôm
nhôm, nhuộm nhạo lúc này để "Ngư ông thủ lợi" th́ anh c̣n đáng trách hơn tôi
nhiều lần. (không phân biệt " sỹ phu " trong hay ngoài nước). Bởi v́ hễ anh/chị
càng có nhiều tri thức bao nhiêu, lại càng có "năng lực tiềm tàng" để "hút" vào
mật ngọt và "nhả" ra mật đắng cho đời bấy nhiêu. Nếu tất cả đều im lặng là đồng
lơa với tội ác, là nuôi dưỡng sự áp bức như ư tưởng của cố tổng thống Pháp
Phơ-răng-xoa Mít-tơ-răng (Francois Mitterrand), và lúc ấy th́ :
Ai là người dọn đi bùn rác
Ai là
người gieo hạt
Cho ban mai tươi lành?
(thơ Lưu Quang Vũ)
Xin cảm ơn quư vị độc giả
xa gần đă đọc bài viết này. Tôi rất mong nhận được ư kiến đóng góp của quư vị và
các bạn trên các phương tiện thông tin đại chúng về cả 5 phần, nhất là phần 4
với ư kiến về cuộc TCDY. Dù những ư kiến là đồng t́nh hay không đồng t́nh đối
với tôi cũng rất đáng quư, miễn là chúng ta đến với nhau v́ đều cùng có tâm và
có tấm ḷng yêu đất nước Việt Nam. Tôi hy vọng bài viết này đến được với càng
nhiều độc giả càng tốt và cũng sẽ cố gắng gửi nó đến các nhà lănh đạo trong nước
hiện nay, với tư cách là một công dân Việt Nam.
Một lần nữa xin chân thành
cảm ơn quư vị độc giả và hẹn gặp lại trong những bài viết tới. Xin cảm ơn các
chiến sỹ dân chủ Việt Nam và quốc tế. Cảm ơn nhân dân Thọ Đà - Hà Nội, Xuân Lộc
- Đồng Nai, Quỳnh Phụ - Thái B́nh, Sa Đéc - Đồng Tháp và nhiều nơi khác trên
khắp đất nước đă tiếp thêm cho tôi kiến thức về dân chủ và ḷng tự tin. Xin cảm
ơn đất nước Australia thanh b́nh và tươi đẹp đă cho tôi một môi trường đầy đủ
thông tin để hoàn thành bài viết này.
Văn hào Nga Boris Pasternak
- tác giả cuốn tiểu thuyết Bác Sỹ Zhivago nổi tiếng đă viết: "Cánh rừng, băi
cỏ của mùa đông nước Nga không ai trông thấy cỏ mọc, nhưng một buổi sáng đầu
xuân nh́n ra tất cả đă xanh rờn". Những mầm sống cho cái buổi sáng đầu xuân
ấy đă, đang và sẽ tiếp tục sinh sôi trên đất nước Việt Nam quê hương tôi. Đó là
quy luật không ǵ có thể cưỡng lại được !
Phương Nam -
Australia .
Tháng 6 năm
2000.
* Khi tôi
đang chuẩn bị gửi bài này đi th́ được biết một tin do các báo, đài Việt ngữ tại
Úc loan tải: 5 nhà đấu tranh dân chủ nổi tiếng trong nước là các ông Hoàng Minh
Chính, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang, Hoàng Tiến, Trần Dũng Tiến đă cùng kư
vào một bức thư đề ngày 19/5/2000 gửi tới các đại biểu Quốc Hội khoá X kỳ 7 để
báo động khẩn cấp: "Tiến sĩ Hà Sỹ Phu (tên thật là Nguyễn Xuân Tụ) ngụ tại số 4E
Bùi Thị Xuân, phường 2, thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng vừa bị khởi tố h́nh sự một
cách phi lư và hoàn toàn vô căn cứ, bất chấp các quy định của luật pháp và hiến
pháp". Theo bức thư trên th́ anh bị ghép vào tội danh "phản bội tổ quốc" mà theo
bộ luật h́nh sự của nước CHXHCN Việt Nam có thể bị kết án từ 7 năm tù đến tử
h́nh.
Anh sinh tại Bắc Ninh năm
1940, tốt nghiệp phó tiến sĩ sinh học tại Viện Hàn Lâm Khoa Học Tiệp Khắc, về
nước công tác tại Viện Khoa Học Việt Nam - phân viện Đà Lạt, nay đă nghỉ hưu.
Anh là người đă có những bài viết rất sâu sắc và khách quan về Ư thức hệ cộng
sản, cùng hiện t́nh đất nước như : "Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ
đường của trí tuệ" - 1988, "Biện chứng và ngụy biện trong công cuộc đổi mới" -
1989, "Đôi điều suy nghĩ của một công dân" - 1993 và bài "Chia tay ư thức hệ" -
1995. Trong số đó có những câu : "Không phải như những nguời cộng sản thường
nói rằng chủ nghĩa luôn luôn đúng, chỉ có con người thi hành sai, mà ư thức hệ
cộng sản sai từ căn bản. Phải từ bỏ ư thức hệ đó th́ mới xây dựng được đất
nước." và:
"Ư thức hệ Mác-xít là
một ư thức hệ phong kiến trá h́nh của triều đại phong kiến cuối cùng, đang ḱm
hăm sự tiến bộ xă hội và được dùng làm b́nh phong cho những yếu tố tiêu cực ẩn
nấp, … nếu giật bỏ được th́ cả cơi Việt Nam này bừng sáng, v́ chỉ từ đó mọi việc
mới có thể bắt đầu một cách trong sáng, mọi sự vật mới mang ư nghĩa thật của
nó.".
Tổ chức quốc tế chuyên đấu
tranh cho nhân quyền trên thế giới (Human Right Watch) cũng phát đi từ New York
một bản tuyên bố ngày 31/5/2000, trong đó có đoạn ghi rơ : "Đó là sự vi phạm
luật quốc tế và vi phạm hiến pháp Việt Nam". Đồng thời bản tuyên bố kêu gọi
chính phủ Việt Nam hăy ngưng ngay sự đàn áp này. Nếu như không t́m thấy chứng cứ
ǵ về việc phạm tội h́nh sự, mà chỉ t́m thấy những chứng cứ về sự bày tỏ quan
điểm chính trị riêng một cách ôn hoà của công dân. Nhiều tổ chức, nhiều nhà
chính trị, khoa học trên thế giới cũng đă lên tiếng phản đối sự đàn áp này.
Cùng bị
truy tố trong đợt này c̣n có nhà báo Mai Thái Lĩnh, v́ công an t́m thấy trong
nhà anh ở Đà Lạt bản thảo "Kết ước năm 2000", có nội dung như một bản
tuyên ngôn chung đ̣i dân chủ cho Việt Nam và t́nh nghi đây là công tŕnh tập
thể, trong đó có liên quan đến nhóm trí thức Hà Sỹ Phu, Mai Thái Lĩnh, v.v… Như
là một hành động thiết thực góp phần bảo vệ các anh, tôi xin được ghi tên ḿnh
vào Bản lên tiếng bảo vệ Hà Sỹ Phu. Tôi nghĩ rằng bảo vệ Hà Sỹ Phu, Mai
Thái Lĩnh và các chiến sĩ dân chủ trong nước hiện nay, kể cả đă có danh hoặc
b́nh thường chưa có danh, cũng là bảo vệ cho nền dân chủ Việt Nam. Và đó là
trách nhiệm chung của tất cả mọi người Việt Nam yêu nước hôm
nay.