Viết tiếp về nhận thức
lại
Phương Nam – Australia
Năm 1975, tôi theo gia
đ́nh vào miền Nam. Từ đó đến nay, gần
26 năm đă trôi qua, nhưng cái cảm giác buồn vui
lẫn lộn của những ngày sắp đi th́ tôi
vẫn thấy như nó chỉ diễn ra mới đây thôi.
Trong tôi lúc ấy là cả một sự mâu thuẫn:
cứ nghĩ đến việc được đi
dọc theo Quốc lộ số 1- Con đường nay
đă nối liền một dải đất nước
khiến ḷng háo hức chỉ muốn đi ngay. Nhưng
nỗi buồn của sự chia ly cận kề lại như
muốn ngăn tôi lại.
Có lẽ suốt
đời tôi sẽ không sao quên được cái
buổi chiều của Hà Nội mùa đông năm
ấy: Hà Nội của tuổi thơ tôi, nơi tôi đă
sinh ra và lớn lên. Hà Nội của một thời đạn
bom, một thời ḥa b́nh với biết bao kỷ
niệm mà chỉ lát nữa thôi tôi sẽ phải để
lại tất cả. Tiếng nói cười, rồi
tiếng khóc của kẻ ở, người đi trên sân
ga Hàng Cỏ hôm ấy cứ quyện lại làm tôi
nhớ măi.
Buổi tối -
Trời rét đậm, mưa giăng giăng. Đứng
một ḿnh ở đầu toa nh́n về Hà Nội
chỉ c̣n thấy một vùng sáng mờ rồi từ
từ mất hẳn. Chỉ đến khi ấy, tôi
mới chịu tin rằng ḿnh đă thực sự
phải xa nó. Tầu vào Nam lúc đó c̣n gọi là tầu
liên vận, v́ đường sắt Thống Nhất chưa
được nối liền. Tầu chỉ chạy
được đến ga Vinh, từ đấy theo
kế hoạch đoàn sẽ chuyển sang đi bằng xe
hơi. Nhưng khi đến Vinh th́ được báo là
đoạn phía trong đang bị băo lụt, không thể
đi tiếp. Cũng v́ vậy mà buổi tối đầu
tiên ở lại chờ đợi, chúng tôi đă
được xem bộ phim Em Bé Hà Nội chiếu trên
một sân vận động. Trong phim có nam diễn viên
Thế Anh quen thuộc và cô bé Lan Hương 11 tuổi
mới đóng phim lần đầu. Quả thật là hôm
ấy khi xem phim, tôi không mấy quan tâm đến nội
dung của nó, v́ đă được biết từ
mấy tháng trước qua báo chí. Mắt tôi chỉ
đăm đắm nh́n vào những cảnh vật, con người
Hà Nội quá đỗi thân thiết, ḷng chỉ mong sao
cho cơn băo kia ngày càng ... nặng thêm để đoàn “phải”
quay ra!
Nhưng rồi
mấy ngày sau th́ băo cũng tạnh. Đường xá cũng
không hỏng hóc ǵ đáng kể và đoàn chúng tôi
lại lên đường. Những chiếc xe ca Ba Đ́nh thân
thuộc đưa tiếp chúng tôi đi. Những tên sông,
tên núi, tên làng Việt Nam mà mới hôm nào đây tôi
chỉ được nghe hoặc đọc trên những
trang sách, báo th́ nay tôi đă được tận
mắt ngắm nh́n thỏa thích. Từ Đà Nẵng vào,
chở tiếp đoàn là xe đ̣ thuộc hăng Phi Long
của miền Nam với bác tài mặc bộ đồ
nghiêm trang như đi dự lễ hội, tạo cho tôi
một cảm giác rất lạ lẫm và thích thú.
Chặng chót của cuộc hành tŕnh là Nha Trang - Sài G̣n. Và
đây: xa lộ Sài G̣n - Biên Ḥa, trên xe lúc ấy
những ai vẫn c̣n đang ngủ gà, ngủ gật
đều bừng tỉnh, xe ồn ào hẳn lên. Kế
tiếp là sông Đồng Nai, ngă 3 Vũng Tầu, ngă 4
Thủ Đức, Nhà máy xi măng Hà Tiên, cầu Rạch
Chiếc, v.v …
Sài G̣n trước
mặt đó! Có ai đó nói lớn. Mọi
người trên xe đều nhổm cả dậy, ai cũng
tranh nhau nói, tranh nhau b́nh luận hay chỉ trỏ một cái
ǵ đó, mà chẳng cần quan tâm đến việc
những người bên cạnh có thèm để ư đến
ḿnh hay không. Xe đi tiếp vào nội đô với
bến đỗ cuối cùng là ngă 7 Sài G̣n, khúc
đường Pêtruưt Kư. Cảm giác đầu tiên
của tôi về Sài G̣n là nó thật ồn ào và náo
nhiệt so với Hà Nội yên tĩnh và trầm lặng
hơn.
Hồi c̣n chiến
tranh, Sài G̣n nói riêng và miền Nam nói chung trong tôi là
một sự tổng hợp của những hiểu
biết khá đơn giản và đầy cảm tính:
đó là Miền
Nam đi trước về sau với Tây Nguyên hùng vĩ,
có Sông Đắc K’rông mùa xuân về và có anh hùng Núp
bắn Pháp chảy máu. Là miền Trung ruột thịt
với Huế cầm tay Sài G̣n - Hà Nội, bên dăy Trường
Sơn ngời sáng tin yêu. Là Quảng Nam - Đà
Nẵng trung dũng kiên cường, đi đầu
diệt Mỹ. Là Miền Đông gian lao mà anh dũng,
có sóc BomBo với những tiếng chày giă gạo nuôi quân.
Là Những Cô Gái Đồng Bằng Sông Cửu Long với Áo
bà ba, súng quàng vai hôm sớm ra đi, mái tóc xanh quyện hương
trái ngọt. Là ḍng sông Vàm Cỏ Đông với Nước
xanh biêng biếc chẳng đổi thay ḍng, đuổi Pháp
đi rồi nay đuổi Mỹ xâm lăng.
Và cũng là của
một Sài G̣n Quật Khởi rầm rập bước
quân đi,...
Thế mà miền Nam
yêu thương lại đang bị quân thù xâm lược
dày xéo:
... Có thể nào yên? Miền Nam ơi, máu
chảy
Tám năm rồi. Sáng dậy, giữa b́nh minh
Tim lại đau, nhức nhối nửa thân ḿnh.
Có thể nào nguôi? Từng viên đạn Mỹ
Bắn miền Nam nát thịt da xương tủy
Của mẹ cha, đồng chí, vợ con
Anh chị em ta ai mất ai c̣n?...
Cho ta lại trở về quê cũ
Bờ sông Hương hay bến sông Bồ
Cùng các mẹ, các o, các chú
Giành lại từng mảnh đất thành đô!
Cho ta được làm kho ḿn nổ
Đèo Hải Vân, quật đổ quân thù
Cho ta được làm cây chông miệng hố
Đâm chết bầy giặc bố chiến khu!...
(Tố Hữu - Có Thể Nào Yên? - 6.1962) .
Biết bao tin
tức từ miền Nam gửi ra về những tội ác
ở Phú Lợi, Sơn Mỹ (Mỹ Lai), về các
chiến dịch Tố Cộng, Diệt Cộng, Luật
10/59,… đă khiến cho đồng bào miền Bắc
hồi ấy sôi sục căm hờn. Năm 1968 là
thời kỳ có số lượng quân Mỹ ở
miền Nam đông nhất (hơn nửa triệu), cũng
là thời kỳ mà ở miền Bắc, các phong trào 3
sẵn sàng của thanh niên và 3 đảm
đang của phụ nữ được dấy lên
mạnh mẽ; mỗi người làm việc bằng hai,
v́ đồng bào miền Nam ruột thịt:
"…
Miền Nam đang gọi ta, vượt Trường Sơn
bay vọng ra, ôi tiếng quê hương như thúc
giục chúng ta. Mười mấy năm đă qua,
giặc thù xéo lên quê nhà, gieo tóc tang, đau thương,
điêu tàn – Miền Nam!
Yêu dấu ta ơi,Xin hiến dâng cả trái tim chúng tôi
đang sục sôi. Miền Nam ơi!
Một tiếng của Người gọi, chúng tôi sẽ
lên đường về quê hương miền Nam…”
Những năm tháng
ấy, có những cậu thiếu niên chỉ lo canh cánh có
một điều: khi ḿnh đủ tuổi được
đi bộ đội th́ đă … hết giặc Mỹ
rồi!
Đó cũng là vùng
đất mà các cô chú miền Nam tập kết vẫn thường
kể:
Sau này nước
nhà thống nhất rồi, tụi bay vô trỏng th́
mặc sức mà ăn cá. Thậm chí đứa nào
muốn rửa chân th́ cũng phải... rẽ cá ra
mới rửa được!
Những chuyện có hơi phóng quá lên như vậy,
bởi nỗi nhớ thương "ngày Bắc, đêm
Nam" của các cô, chú nhưng lũ trẻ chúng tôi nghe
măi không biết chán. V́ nó kích thích dữ dội sự
giầu trí tưởng… bở của cả bọn!
(những là chỉ
cần vểnh cẳng, vuốt râu mà làm chơi ăn
thiệt!).
Thế là tôi đă
thực sự được đặt chân lên vùng đất
phương Nam thân yêu của Tổ Quốc. Cái cảm giác
tuyệt diệu của buổi chiều đầu tiên
đứng giữa Sài G̣n làm cho tôi nhớ lại một
bài hát thiếu nhi quen thuộc, mà nữ ca sĩ Ái Vân
từng hát ngày nào: Miền Nam em dừa nhiều,
miền Nam em dứa nhiều, miền Nam em xoài thơm,
miền Nam em khoai bùi,...
Đó là những
kỷ niệm sâu đậm của tuổi thơ đă
đi qua.
Vào miền Nam
một thời gian hoặc sau này ra nước ngoài, tôi
được đọc hoặc nghe nhiều người
nói rằng: "Miền Bắc đă xâm lăng miền
Nam". Nhưng theo tôi, đây là điểm rất
cần nhiều người có tâm huyết và điềm
tĩnh phân tích nó kỹ hơn, chứ lũ trẻ chúng
tôi và nhân dân miền Bắc hồi ấy không nghĩ như
vậy. Vấn đề là thuộc về những
người dẫn dắt hoặc sâu xa hơn là
xuất phát từ thể chế chính trị
của nó, mà điều này th́ rất cần thiết
phải làm cho rơ. Tôi xin được tŕnh bày kỹ hơn
ở phần dưới của bài viết này. Tôi cũng
xin lỗi quư vị độc giả, v́ từ đầu
tới giờ đă hơi dài ḍng một chút. Lư do là v́:
sự nhận thức lại trong tôi đă bắt đầu
nảy sinh từ cuộc hành tŕnh trên. Và sau đây là
những câu chuyện.
1 - Nghi vấn
đầu tiên :
Một trong những điều tôi rất quan tâm khi
mới vào Sài G̣n là muốn tự ḿnh thử định
lượng xem tỷ lệ các cô gái Sài G̣n đi tải
đạn là bao nhiêu phần trăm?(!)
Nhớ là hồi ấy, mỗi khi có dịp nói chuyện
với các chị nhắm thấy có tuổi phù hợp, tôi
thường hay hỏi:
"
Thế hồi tết Mậu Thân năm 68, các chị có
đi tải đạn cho các anh bộ đội giải
phóng không? - Làm ǵ có "zdụ" đó."- Các
chị trả lời dứt khoát.
Tuy đă hơi nao
núng, xong tôi vẫn c̣n vớt vát :
"
Có thể là với các chị th́ không, nhưng c̣n các
chị khác th́ sao? Theo em th́ 10 chị, nếu không
được... dăm, bảy chị th́ "giá chót"
cũng được vài ba chị, chứ không lẽ
lại không được chị nào? "(!)
Thoáng mất vui v́
cậu em "chậm hiểu ". Một chị đáp:
"
Đă nói đến vậy mà cậu c̣n chưa tin tụi này
sao? Hồi đó lo chạy... giặc c̣n không xong, chứ
ở đó mà đi tải đạn cho mấy ổng!
Nếu có th́ ở đâu chứ nội trong Sài G̣n này làm
ǵ có.".
Đă đến nước
này th́ đúng là chuyện nghiêm chỉnh rồi - Tôi
thầm nghĩ và tự đặt thêm cho ḿnh những câu
hỏi mới. Th́ ra cái h́nh ảnh mà tôi vẫn hằng
ngưỡng mộ: “...Từ ngày đô
thị vùng lên chị em ḿnh đi tải đạn, để
các anh đi diệt thù,...”là như
thế nào nhỉ? Nó có thực sự là h́nh ảnh đại
diện cho ư chí và nguyện vọng của đa số nhân
dân miền Nam hay không? Càng t́m hiểu sâu rộng hơn,
tôi lại càng phát hiện ra nhiều điều mâu
thuẫn giữa thực tiễn cuộc sống đang
diễn ra xung quanh, với những ǵ mà từ nhỏ
tới lớn ḿnh vẫn được tuyên truyền, giáo
dục. Đúng là phải nhận thức lại thật - Tôi
tự nhủ.
2 - Gặp
những người lính:
Trong chuyến hành tŕnh trên, tôi cũng đă gặp
một đoàn quân được đi phép những đợt
đầu tiên sau chiến tranh trên bến phà Long Đại
thuộc tỉnh Quảng B́nh. Các anh bước lên, c̣n chúng
tôi th́ chờ để bước xuống một
chuyến phà. Để ư quan sát, tôi thấy hầu như bên
ngoài ba lô của người lính nào cũng có mấy con
búp bê, mấy chiếc rổ, giá nhựa (ai nặng hơn
th́ có thêm 1 chiếc khung xe đạp.). Sau này khi có
dịp tṛ chuyện, tôi đă ṭ ṃ hỏi :
“Bên
ngoài th́ là như vậy, thế c̣n bên trong ba lô của các
ông lúc ấy là những ǵ? Đề nghị hăy thành
khẩn khai báo, rồi sẽ được "Cách
mạng” khoan hồng! - Th́ chúng
tớ sợ ǵ cậu mà không dám nói thẳng, nói
thật.” Các anh trả lời, này nhé:
“1
bộ quân phục để thay đổi, một
chiếc vơng, 1 cái màn, 1 tấm chăn mỏng, 1 chiếc
đèn pin, một cuốn nhật kư, vài phong lương
khô quân đội, 1 - 2 gói bột ngọt, vài gói kẹo
dừa, kẹo lạc của miền Nam mang ra làm quà cho
gia đ́nh, bạn bè. Hết .”.
Một anh nói thêm:
“Theo
ḿnh th́ có thể cũng có một số nào đó
lợi dụng để thủ lợi, nhưng số này
nếu có th́ cũng không nhiều, v́ đa số lính tráng
tụi ḿnh hồi ấy đều chấp hành rất
nghiêm kỷ luật quân quản. Tất nhiên những năm
sau này th́ không ai dám bảo đảm đâu,...”.
Tôi hoàn toàn tin vào
những “lời khai” ấy
của các anh. Tuy nhiên, ấn tượng mạnh nhất
mà tôi nhận thấy trên chuyến phà năm xưa là
những nét ưu tư trên gương mặt những người
lính. Lúc đó tôi đă tự hỏi ḿnh:
“Các anh đă may
mắn c̣n sống. Lại là những người đại
diện cho bên chiến thắng, nay sắp về được
đến nhà. Vậy th́ những nét ưu tư kia là nghĩa
làm sao?”. Tất nhiên, với cái nh́n về cách mạng
thường chỉ thấy mầu hồng của một
cậu thiếu niên như tôi hồi ấy, th́ đó là
một câu hỏi thật khó trả lời cho thỏa
đáng.
Nhưng càng ngày th́
vấn đề càng rơ và tôi cũng đă dần tự
giải đáp được cho ḿnh: nửa năm là
ngắn mà cũng là dài. Sau những nỗi vui mừng
rất tự nhiên khi cuộc chiến tranh kết thúc, th́
trong các anh nhất định phải là sự hồi tưởng
lại quá khứ, sự chiêm nghiệm hiện tại và
những lo toan cho tương lai: cuộc chiến này tàn
khốc và dai dẳng quá, ḿnh đă may mắn c̣n
sống, nhưng có hàng triệu người đă
phải nằm xuống. Thậm chí có những đồng
đội đă v́ ḿnh mà hy sinh. Người chết th́
đă đành, nhưng c̣n gia đ́nh họ th́ ḿnh như
người mắc nợ suốt đời, không ǵ có
thể trả được. Nhiều người đi
biền biệt 5 - 10 năm hoặc hơn nữa. Có người
đă không về kịp để nh́n thấy cha mẹ
già lần cuối, trước khi các cụ nhắm
mắt xuôi tay. Rồi chiến tranh cũng làm cho hậu phương
lớn bầm dập những vết thương, cái nghèo
đến xác xơ và những cánh thư báo tin bao
mất mát nơi quê nhà. Trong các anh, nhiều người
cũng đă có người yêu, nhưng v́ các cô không
thể chờ đợi thêm được nữa, nay
đă đi lấy chồng.
Và nữa: hồi
chiến tranh ḿnh đă thấy những bất công, xong
vẫn c̣n lờ mờ. Nhưng chỉ mới ḥa b́nh
đây thôi th́ vấn đề đă khá rơ ràng : có
rất nhiều người đă t́m đủ mọi cách
để thu vén hưởng lợi, mà họ lại thường
có cái vẻ bề ngoài rất "đáng kính", hay
giảng giải cho ḿnh nghe về lư tưởng cộng
sản, về đạo đức cách mạng và về
những lẽ công bằng trên đời,... Chẳng
phải đâu xa, đi cùng chiều với ḿnh từ Nam
ra Bắc thôi cũng thấy cơ man nào những
chuyến xe chở đầy hàng hóa. Chúng là của ai
vậy? Rất tiếc rằng nhiều "chủ hàng"
lại là thủ trưởng của ḿnh, hễ quyền
lực càng cao th́ khả năng lách lên phía trước
lại càng lớn. Th́ ra những giá trị cao đẹp
mà ḿnh vẫn hằng tin tưởng, sẵn sàng cống
hiến cả tuổi thanh xuân và xương máu cho nó, nay
đă đến lúc phải nhận thức lại, để
không bị lợi dụng thêm nữa. Sâu xa hơn, ḿnh
cần phải xem xét lại động cơ nào khiến
cho những người lănh đạo cao nhất, đă
dẫn dắt cả dân tộc vào cuộc chiến tranh
vừa qua, và v́ sao họ đă làm được như
vậy?
Như phần I
của bài Suy Nghĩ Về Nhận Thức Lại,
viết vào tháng 4 năm 2001 vừa qua tôi đă có dịp
tŕnh bày: sau chiến tranh thế giới thứ II, cục
diện chính trị trên thế giới đă có những
thay đổi lớn, và v́ sao Việt Nam lại trở thành
điểm nóng của cuộc chiến tranh lạnh
giữa 2 phe. Chúng là những yếu tố bên ngoài, trước
tiên và chủ yếu đă gây ra cuộc chiến tranh 30 năm
của dân tộc ta. Nhưng sẽ thật là thiếu sót
lớn nếu như không đề cập đến
những yếu tố bên trong. Tuy chúng chỉ là phụ
thuộc và có sau, nhưng cũng rất quan trọng.
3 - Vấn
đề là ở thể chế chính trị:
Năm 1963, tại thành phố Vũ Hán - Trung Quốc
diễn ra một cuộc gặp gỡ giữa Mao Trạch
Đông với 3 nhà lănh đạo Đảng Lao Động
Việt Nam lúc ấy là các ông: Lê Duẩn, Trường
Chinh, Nguyễn Chí Thanh. Trong cuộc gặp đó Mao
Trạch Đông tuyên bố :
“
... Bom nguyên tử là con hổ giấy. Nếu chiến
tranh nguyên tử xảy ra, bất quá là Trung Quốc
chết đi 400 triệu người, cũng c̣n lại
300 triệu. C̣n bọn xâm lược sẽ bị tiêu
diệt. Dân Trung Quốc mắn đẻ lắm. Chẳng
bao lâu dân số Trung Quốc sẽ lên 700 triệu,
thậm chí 800 triệu, 1 tỷ.
Có ǵ mà phải
sợ chiến tranh nguyên tử?..."
Cứ cho rằng
Mao Trạch Đông đă nói không sai về đặc tính
mắn đẻ của nhân dân Trung Quốc đi, nhưng
không phải v́ thế mà ông ta tự cho phép ḿnh đem
cả một dân tộc 700 triệu người ra để
thách thức “Bọn xâm lược” như
vậy. Chúng ta hăy thử h́nh dung nếu đấy không
phải là những lời của Mao nói ra giữa ḷng nước
CHND Trung Hoa XHCN, mà lại là của các tổng thống
Mỹ, Pháp hay các thủ tướng Anh, Úc,… cùng
thời nói về đất nước và nhân dân họ
th́ điều ǵ sẽ xảy ra? Dỹ nhiên là không
thể được. Ngay lập tức họ sẽ
bị truất phế bởi áp lực của các tầng
lớp nhân dân, của các đảng phái khác, của
Quốc hội và của chính ngay đảng cầm
quyền mà họ đang là đại diện. Tức là
thể chế chính trị của các nước này luôn
luôn bảo đảm tạo ra được những
đối trọng đủ mạnh, để không cho phép
bất cứ ai, dù họ thuộc phái "Bồ câu"
hay "Diều hâu" dám đưa ra những tính toán
lạnh lùng và tàn nhẫn như vậy. Thế nhưng
những chuyện tương tự lại luôn diễn ra,
chẳng những ở Trung Quốc với Mao Trạch Đông,
mà c̣n là rất phổ biến trong toàn hệ thống
XHCN.
Câu chuyện trên c̣n
có 3 điểm đáng lưu ư :
- Khi Mao tuyên bố
như vậy, ông ta đă chắc chắn rằng ḿnh
sẽ không thuộc 1 trong số 400 triệu người
bị chết bởi "Con hổ giấy" kia.
Nếu biết là có thể chết, ông ta đă không dám
mạnh miệng như thế.
(cũng như
ở Việt Nam có những người luôn hô hào
nguyện được làm cây chông, miệng hố, làm
kho ḿn nổquật đổ quân thù, v.v… nhưng
đến khi bảo làm thật th́ chưa chắc c̣n
giữ được ư định ban đầu.).
- Mao cũng thừa
biết rằng cái gọi là "Nền dân chủ
XHCN" ở Trung Quốc không thể làm suy chuyển ǵ
đến quyền lực của ông ta sau đó. Mọi
ư kiến phản đối nhất định sẽ
bị nghiền nát bởi hệ thống chuyên chính vô
sản mà ông ta đang là "Người cầm lái vĩ
đại. ".
- Sự tập trung
quyền lực về mọi mặt ở mức độ
cao, chưa từng có trong lịch sử loài người
ở tất cả các nước XHCN vào trong tay duy
nhất mộtĐCS cầm quyền. Sau đó lại có nguy
cơ dồn tiếp chỉ cho một số ít, thậm chí
là một người đă là mảnh đất
thuận lợi dẫn tới t́nh trạng: sản sinh ra
những nhà lănh đạo dám cả gan đem cả dân
tộc họ ra để đánh những canh bạc
xả láng như Stalin, Mao Trạch Đông,… đă làm.
(đất nước
Trung Quốc bao la, dân tộc Trung Hoa với lịch sử
văn hóa 5000 năm đă từng là một pḥng thí
nghiệm khổng lồ để Mao tiến hành thực
nghiệm những ư tưởng điên rồ của ḿnh
từ năm 1949 đến 1976 .)
Theo tôi, nếu xét
riêng về mức độ tập trung quyền lực
ở các nước XHCN, th́ ngay ở cả các nước
Phát xít trước kia (Đức, Ư, Nhật) cũng không
có được. Bởi v́ ở các nước ấy,
tuy quyền lực chính trị cũng được
tập trung ở mức độ cao, nhưng nền kinh
tế th́ về cơ bản vẫn dựa trên cơ
sở tư hữu. C̣n ở các nước XHCN, việc
huy động "sức mạnh tổng hợp" là
thuận lợi hơn nhiều. V́ nền kinh tế về
cơ bản là dựa trên cơ sở công hữu về
các tư liệu sản xuất. Chỉ có điều là
chính cái "ưu thế" ấy lại bị sai
từ gốc. Nó sai từ ngay trong khâu “thiết
kế” của Mác.
Chính từ học
thuyết của ông đă tạo điều kiện để
những người trong các "Ban chỉ huy thi công"
sau này được nắm quyền hành cực lớn.
Trong khi họ lại không hề bị một cơ
chế hăm hữu hiệu nào khả dỹ chấp
nhận được cho những nỗi đam mê vô
tận về quyền lực của họ. V́ vậy
sớm muộn ǵ họ nói riêng, cũng như cả
hệ thống ấy nói chung sẽ rơi vào những t́nh
trạng thoái hóa, độc tài hóa, bê tha hoá,… và đi
kèm với nó là những hành động đầy phiêu lưu,
duy ư chí và phản khoa học.
Đề cập đến
vấn đề này, trong bài Đôi Điều Suy Nghĩ
Của Một Công Dân, tiến sĩ sinh học Hà Sĩ
Phu cũng đă viết :
"
... Marx đă xử lư rất không công bằng đối
với hai bộ phận của sự chiếm hữu.
Ở mặt chiếm hữu tư liệu sản xuất
th́ Marx đă quá nghiêm khắc, đáng lẽ chỉ nên
chống sự tập trung tư liệu sản xuất quá
lớn th́ ông lại chủ trương xóa bỏ mọi
sở hữu tư nhân, làm mất đi cái động
lực tự nhiên của đời sống. Với
quyền lực xă hội th́ Marx lại quá nuông chiều,
cho nó quyền chuyên chính với hy vọng rằng trong
một tương lai xa xôi nó sẽ tự tiêu vong. Chiếm hữu quyền lực mới là sự
chiếm hữu triệt để nhất !
Điều đó nhân loại đă có thừa bài học, c̣n
một thứ “quyền lực tự tiêu vong” th́
suốt lịch sử hàng triệu năm chưa ló ra
một tín hiệu nào để dự đoán nó
cả!"
Ở một đoạn
khác sau đó, anh viết tiếp :
"…
Cuộc Cách mạng bị đánh tráo và giai cấp vô
sản tay trắng là giai cấp bị phản bội trước
tiên. Điều rất đúng với quy luật biện
chứng là khi người ta định dùng chuyên chính vô
sản để đánh tư bản mà không đánh
được th́ họ sẽ dùng ngay chuyên chính vô
sản làm phương tiện để lách qua cửa
ải tự do cạnh tranh mà thành tư bản! Và
nếu dự cảm ấy sẽ thành hiện thực th́
công lao của học thuyết về chủ nghĩa xă
hội là đă cung cấp cho nhân loại thêm một con
đường để tư bản hóa. Một
thứ tư bản lưu manh và bệnh hoạn!".
xem : http://www.lmvntd.org/dossier/hasiphu/hasiphu.htm
.
Ở Việt Nam cũng
không phải là một trường hợp ngoại
lệ: báo Nhân Dân số ra ngày 17.7.1966 đăng toàn văn
Lời Kêu Gọi Chống Mỹ Cứu Nước
của chủ tịch nước Việt Nam DCCH - Hồ Chí
Minh, trong đó có đoạn:
“
... Giôn - Xơn và bè lũ phải biết rằng: chúng có
thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc
nhiều hơn nữa để đẩy mạnh
chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng
có thể dùng hàng ngàn máy bay tăng cường đánh
phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay
chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm
chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt
Nam anh hùng. Chúng càng hung hăng th́ tội ác của chúng càng
thêm nặng. Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm,
20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Pḥng
và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị
tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có
ǵ quư hơn độc lập tự do! Đến ngàythắng
lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước
ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn,...”.
( Giôn-Xơn:
tổng thống Mỹ L.Johnson, giai đoạn 1963 - 1969 )
Không ai có thể
nghi ngờ ǵ về nội dung đanh thép, mang đầy
tính chiến đấu của đoạn văn trên. Tuy
nhiên có một điều chắc chắn là: trước
khi CT Hồ Chí Minh nhân danh nhân dân Việt Nam đọc nó,
th́ ông cũng không cần phải tham khảo ư kiến
của họ, hay ít ra là của gần 20 triệu đồng
bào miền Bắc lúc bấy giờ. Cùng lắm, ông
chỉ cần thông qua một số người trong
Bộ chính trị và Ban bí thư ĐLĐ Việt Nam lúc đó
mà thôi.
(hoặc có thể
là ngược lại: những người khác trong đảng
đă quyết định sẵn, viết sẵn rồi
đưa cho ông đọc.). C̣n nhân dân th́ chỉ có duy
nhất nghĩa vụ chấp hành. “Ưu thế”
ấy; những người nắm quyền lực ở các
nước có nền dân chủ đa đảng, dẫu
là nằm mơ cũng không có được.
Để rơ hơn cho
nhận xét này, chúng ta hăy quay trở lại với
bối cảnh miền Nam Việt Nam vào những năm
cuối của thập niên 1950s: lúc này nền Đệ
Nhất Cộng Ḥa do tổng thống Ngô Đ́nh Diệm lănh
đạo đă được xác lập với sự
hỗ trợ mạnh mẽ của người Mỹ.
Những ảnh hưởng của người Pháp trước
đó đă và đang tàn lụi dần. Chưa tập
kết ra Bắc - Ủy viên Bộ chính trị ĐLĐ
Việt Nam, kiêm Bí thư xứ uỷ Nam Bộ lúc ấy
là ông Lê Duẩn vẫn ở lại và tiếp tục
viết bản Đề Cương Đường Lối Cách
Mạng Miền Nam, vào giữa năm 1956, ngay tại khu
Đa Kao - Sài G̣n.
( ông ra Bắc vào
khoảng giữa năm 1957).
Trong bản Đề
Cương khẳng định : “… Muốn chống
Mỹ - Diệm, muốn hoàn thành độc lập dân
tộc, thống nhất Tổ Quốc, ngoài con đường
bạo lực cách mạng, nhân dân miền Nam không có con
đường nào khác.”.
Thế nhưng, chúng
ta hăy thử xác định xem có đúng là: “ Nhân dân
miền Nam không có con đường nào khác” không? Hay
đấy chỉ là ư kiến chủ quan, phiến
diện và đầy tham vọng của một số người
nắm thực quyền trong Đảng Lao Động Việt
Nam lúc bấy giờ?
Ư kiến sau đây
của ông Lê Trung Tá, cán bộ thuộc Ủy Ban Khoa
Học Nhà Nước - Hà Nội vào những năm 1960s,
rất đáng để chúng ta hôm nay và các thế
hệ con cháu mai sau suy ngẫm:
“...
Khát vọng của Lê Duẩn là phải làm một cái ǵ
hơn cả Điện Biên Phủ, để vượt
trội cả Hồ Chí Minh lẫn Vơ Nguyên Giáp. Khát
vọng ấy được Lê Đức Thọ đồng
t́nh. Lập trường chủ chiến có
nguồn gốc sâu xa như vậy” . Và: “
... Nếu không phát động được cuộc
chiến tranh ở miền Nam th́ cả Lê Duẩn lẫn
Lê Đức Thọ đều chưa nắm được
thế thượng phong trên vũ đài chính trị,...”.
Có ư kiến cho
rằng: “Bây giờ mọi việc đă qua rồi th́ nói
dễ lắm. Nhưng chúng ta cần phải nh́n thẳng
vào t́nh h́nh thực tiễn lúc đó là đế
quốc Mỹ ngày càng muốn can thiệp sâu vào miền
NamViệt Nam nước ta. Họ lợi dụng việc
đă không trực tiếp kư vào Hiệp định Giơ-ne-vơ
(Genève) tháng 7.1954, nên đă thúc đẩy chính phủ
VNCH của ông Ngô Đ́nh Diệm không chấp thuận
cuộc tổng tuyển cử, thống nhất đất
nước vào tháng 7.1956, theo đúng tinh thần và
nội dung của bản Hiệp định trên. Đấy
chính là nguyên nhân chủ yếu khiến cho nhân dân
miền Nam phải vùng lên, dùng bạo lực cách mạng
để đập tan bạo lực phản cách
mạng. Cơ sở để Bản Đề Cương
được ra đời là như vậy”.
Những điều
này, các sách báo trong nước đều đă đề
cập rất tường tận bao năm qua. Nó cũng
đúng nhưng chưa đủ. Tôi tin rằng mai sau,
với một nước Việt Nam mới, nhất định
giai đoạn mang tính chất bước ngoặt của
cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ II này
cũng sẽ được các sử gia viết lại
cho chính xác và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, ở
đây có 2 vấn đề cần lưu ư:
a) Bản Đề Cương
trên trong thực tế đă là "cơ sở lư
luận và chính trị " của ĐLĐ Việt Nam,
để sau đó rất nhiều quyết định,
lực lượng quan trọng đă ra đời,
nhằm mục đích phục vụ cho guồng máy
chiến tranh đă vận hành. Ví dụ như : Nghị
quyết 15 của TƯ (khoá II) - tháng 1.1959. Quyết định
thành lập đường ṃn Hồ Chí Minh tháng 5.1959 (c̣n
gọi là Đường 559). Nghị quyết ĐH Đảng III
tháng 9.1960 với 2 nhiệm vụ chiến lược: Xây
dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh
thống nhất nước nhà ở miền Nam. Thành
lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam
Việt Nam tháng 12.1960. Thành lập Quân Giải Phóng
Miền Nam tháng 2.1961, v.v…
Ai là người
Việt Nam dù muốn hay không? Đồng t́nh hay phản
đối cũng đều bị ảnh hưởng
bởi những sự kiện trên.
“Đảng ta luôn
đoàn kết và thống nhất”. Nghe qua cũng
thấy có nhiều người tràn dâng lên một
niềm “tin tưởng, tự hào vào Đảng kính yêu!”.
Thế nhưng,
nếu b́nh tĩnh suy xét một chút, người ta sẽ
giật ḿnh nhận ra rằng: chỉ trừ có
“mỗi” nhân dân Việt Nam là không thấy được
hỏi ư kiến ǵ. Quốc hội nước
Việt Nam DCCH cũng vậy hoặc nếu có th́ cũng
hoàn toàn h́nh thức, mang nặng tính tŕnh diễn. Mặc
dù, trong tất cả các bản Hiến pháp của
Việt Nam DCCH hay CHXHCN Việt Nam từ năm 1946 đến
nay đều luôn xác nhận: Quốc hội là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, kể cả
quyền quyết định các vấn đề:
chiến tranh hay ḥa b́nh.
Đấy cũng là cái
cung cách hành xử của Mao Trạch Đông, khi ông ta xác
định “Bom nguyên tử là con Hổ giấy”,
hay của những nhà lănh đạo Đông Đức vào tháng
8 năm 1961, chỉ trong 1 đêm đă quyết dựng nên
bức tường chia đôi Đông và Tây Berlin, bất
chấp nguyện vọng thực sự của dân tộc
họ là ǵ. Cũng như cung cách của Phi - Đen (Phidel
Castro), khi ông ta tuyên bố: “Nếu Mỹ
không thích Cuba th́ Mỹ dọn đi nơi khác mà ở!”.
Nhân dân các nước
ấy hoàn toàn không được có vai tṛ ǵ trong
những trường hợp trên. Mặc dù chính họ
sẽ phải gánh chịu nặng nề nhất những
nỗi đau đớn, mất mát, chia ly, … từ các
quyết định ấy. C̣n những người
dẫn dắt th́ họ chỉ được, chứ không
bị mất ǵ.
b) Trong thực
tế, ĐLĐ Việt Nam đă có những cơ sở sau
để cân nhắc và ra quyết định vấn
đề nên chiến tranh hay ḥa b́nh:
- Những nhà lănh
đạo của các nước lớn thuộc cả 2
phe trong cuộc chiến tranh lạnh (Cold war) lúc ấy,
đều không muốn những điểm nóng của
sự đối đầu sẽ trở thành tác nhân cho
một cuộc chiến tranh thế giới thứ III
diễn ra. ( Liên Xô và Trung Quốc dù rất mâu thuẫn
với nhau về nhiều quan điểm, nhưng cũng
đều khuyên các nhà lănh đạo trong ĐLĐ Việt Nam
phải hết sức thận trọng trong vấn đề
này.)
- Xu hướng cùng
chung sống ḥa b́nh và thi đua trong kinh tế để
giải quyết vấn đề "Ai thắng ai"
đă xuất hiện. Xu hướng này bắt đầu
từ năm 1956 tại Đại hội lần thứ 20
của ĐCS Liên Xô. Nó cũng được đa số
những nhà lănh đạo và nhân dân các nước trên
thế giới đồng t́nh và ủng hộ.
Việt Nam chỉ là
1 trong ít nhất là 4 điểm nóng của cuộc đối
đầu giữa 2 phe lúc ấy. ( 3 điểm nóng c̣n
lại là: Đông - Tây Đức, Nam - Bắc Triều Tiên, Cuba
và Mỹ. Nhưng ở đó, do sự tự kiềm
chế của các bên liên quan nên đều đă không
xảy ra chiến tranh lan rộng.)
- Ở miền Nam
Việt Nam, chính phủ của tổng thống VNCH Ngô Đ́nh
Diệm (1955 - 1963), một mặt phụ thuộc nặng
nề vào nước Mỹ, để cùng thực
hiện mục tiêu chung là ngăn chặn phong trào cộng
sản trên thế giới.Nhưng mặt khác, chính
phủ ấy cũng có rất nhiều điểm mâu
thuẫn với Mỹ. Nhất là về phương
thức ngăn chặn phong trào này. (điển h́nh là mâu
thuẫn giữa việc nên hay không nên để quân
đội Mỹ trực tiếp tham chiến ở
Việt Nam. Đó là mâu thuẫn lớn nhất và cuối cùng
ông Diệm đă phải trả giá bằng chính mạng
sống của ḿnh. Những nguyên nhân khác như: sự
độc đoán, gia đ́nh trị, sự bất đồng
của nhiều người trong giới quân nhân đối
với gia đ́nh họ Ngô, bàn tay can thiệp của
C.I.A,... cũng có. Nhưng theo tôi, chúng chỉ là phụ và
lệ thuộc vào mâu thuẫn lớn nhất nói trên.).
- Đă có những người
ở cả trong và ngoài ĐLĐ Việt Nam khi ấy nêu ư
kiến: hai miền Nam - Bắc hăy cùng chung sống ḥa b́nh
và thi đua trong kinh tế để giải quyết
vấn đề “Ai thắng ai? ”.
Rất tiếc, tất cả những cơ sở trên
đều đă bị những người thuộc phái
chủ chiến trong ĐLĐ Việt Nam lúc ấy phớt
lờ. Thể chế chính trị ấy cho phép họ “không
cần thiết phải có nhu cầu” làm
một cái ǵ đó tương tự như Hội
Nghị Diên Hồng năm xưa của ông cha ta, thời
nhà Trần.
Dĩ nhiên nói như
vậy, tôi không có ư khẳng định 100% rằng
hễ cứ gộp tất cả những điều trên
lại là bảo đảm để cuộc chiến Đông
Dương lần thứ II giai đoạn 1960 - 1975 sẽ
không diễn ra, mà chỉ muốn nói rằng:
Lẽ ra chúng
phải được đặt tất cả lên bàn cân
một cách nghiêm túc, trước khi đưa ra một
quyết định rất quan trọng: chiến
tranh hay ḥa b́nh? Xong tất cả đều đă
bị guồng máy ấy dùng đủ mọi cách từ
gầm gừ, lườm nguưt, đến chia cắt, bao vây,
ngăn chặn và nếu cần th́ triệt tiêu luôn.
Những quyết
định khác sau năm 1975 như: các chiến dịch
cải tạo, tách tỉnh ra rồi lại nhập
tỉnh vào, đưa quân vào Campuchia rồi ở lại
đấy quá lâu (1979 - 1989), và gần đây nhất là hành
động nhượng bộ đê hèn phía Trung Quốc
về lănh thổ và lănh hải của những Trần Ích
Tắc, Lê Chiêu Thống thời nay, v.v… Tất cả
đều là những sản phẩm của cung cách ra
quyết định cố hữu nói trên. Miền Bắc
không có Những đêm không ngủ để
phản đối chiến tranh. Trong QĐND Việt Nam không có
khái niệm Phản chiến mà chỉ có khái
niệm Đào ngũ. Những điều ấy
nếu có xuất hiện dù là rất ôn ḥa, cũng đều
sẽ bị bóp chết ngay từ trong trứng nước.
(Vụ án Xét
lại, Chống Đảngvới tên đầy đủ
là Vụ án tổ chức chống Đảng, chống nhà
nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện
đại và làm t́nh báo cho nước ngoài diễn ra
vài năm sau cũng là một ví dụ điển h́nh
chứng minh rằng: những người có ư kiến khác
luôn phải gánh chịu những rủi ro lớn. Đây là
vụ án hoàn toàn ngụy tạo. Ai không tin điều này,
xin hăy hỏi 2 ông Nguyễn Trung Thành và Lê Hồng Hà,
hiện đang sống tại Hà Nội hoặc đọc
tác phẩm Đêm Giữa Ban Ngày của nhà văn Vũ Thư
Hiên - xem: http://www.lmvntd.org/dossier/vthien/dgbngay.htm
.)
4- Vấn
đề của hôm nay:
Nguy cơ của những quyết định tuy rất
"giầu tính Đảng" nhưng lại rất nghèo tính
nhân dân ấy nay c̣n không? Tất nhiên là vẫn c̣n.
Bởi v́ nguyên nhân sinh ra nó, xuất phát từ thể
chế chính trị là chỉ có duy nhất một ĐCS
Việt Nam lănh đạo đất nước vẫn c̣n
nguyên. Dẫu là nay, những nhà lănh đạo mới
của ĐCS đă biết khéo léo che đậy hơn. Tích
cực tung ra nhiều cái gọi là "Cơ chế dân
chủ cơ sở " hơn, nhưng xét về thực
chất, nó cũng giống như cách mà những con
Kỳ Nhông vẫn thường làm: luôn biến đổi
sắc mầu cho phù hợp với môi trường,
thời thế đă thay đổi.
Bằng cách này, lúc
đầu họ cũng có thể đánh lừa
được một số người. Xong chỉ
một thời gian sau, người dân sẽ thấy ngay
rằng: nếu ở trên thượng tầng kiến trúc
vẫn chỉ là duy nhất, th́ sớm
muộn ǵ ở dưới hạ tầng cơ sở,
những “mẩu vụn dân chủ” mà họ mới
nhận được cũng sẽ bị vét sạch mà
thôi. (và Ông lăo đánh cá tội nghiệp lại vẫn
phải trở về với mụ vợ tham lam, cùng
với cái máng lợn xưa của ḿnh!).
Đề cập đến
vấn đề này, trong bài Chia Tay Ư Thức Hệ, anh Hà
Sĩ Phu đă viết : "… Càng suy nghĩ
về nội dung cũng như về hiện t́nh của
Ư thức hệ Mác-xít, tôi càng thấy rơ đây là
một Ư Thức Hệ Phong Kiến Trá H́nh, của
triều đại phong kiến cuối cùng, đang ḱm hăm
sự tiến bộ xă hội, và được dùng làm
B́nh Phong cho những yếu tố tiêu cực ẩn
nấp. Ít ai có ư nghĩ muốn phá cái b́nh phong ấy
đi, trái lại ứng xử theo kiểu: Cứ để
nó đấy, anh nấp tôi cũng nấp, chúng ta hiểu
nhau cả mà! Sống thời nào ta theo thời ấy,
gặp thời Mác - Lê th́ ta làm luận văn Tiến sĩ
về Mác - Lê mà sống, căi nó làm ǵ? Đấy là bí
quyết của môn phái "Hiệp khí đạo” đấy!H́nh
như "cứ để nó đấy" cũng
chẳng ai chết thật, nhưng sao tôi cảm thấy
một cái ǵ khốn nạn quá, chịu không nổi, nên
cứ phải nói ra. Sao lại không chết ai? Khối
kẻ đă chết theo nghĩa đen, khối kẻ
đang sống dở chết dở v́ cái b́nh phong ấy,
và cả một dân tộc đang chết theo nghĩa
chết chân chính của Con Người, chứ sao không
chết?. Ở những nước khác, th́ chắc
một cái b́nh phong không bao giờ lại đáng quan tâm
đến thế. Nhưng Việt Nam th́ khác, b́nh phong là
tất cả, v́ Việt Nam là Thủ Đô của Ngụy
biện!...".
Ở một đoạn
khác trước đó, anh cũng viết:
"... Xem cái cung cách mà cả một đội
ngũ các nhà chính trị và lư luận Mác-xít bây giờ
đang h́ hục nai lưng ra vá víu, che chắn. Người
ta không khỏi ph́ cười, v́ thấy hiện ra
một đám anh hề, cố sức lau nhà cho khô nhưng
lại cứ để cái rô-bi-nê phía sau ồ ồ phun
nước!".
(xem http://www.lmvntd.org/dossier/hasiphu/hasiphu.htm
.)
a - Sự khủng
hoảng về nhân cách và những nỗi bất công hôm
nay :
Những vấn
nạn của đất nước ta hôm nay th́ không
chỉ có vậy. Có rất nhiều người ở
cả trong và ngoài nước đă viết và nói về
chúng. Trong phần này tôi xin tŕnh bày chỉ riêng về 2
điều trên, theo cách nh́n của những nhà làm phim
trong nước.
- Sự khủng
hoảng về nhân cách:
Trong bộ phim
Khoảng Cách chiếu trên Đài Truyền H́nh Trung Ương
gần đây, có một đoạn đối thoại
giữa một chàng sinh viên ở thành phố với người
cha của anh ta như sau:
"...
Con công nhận với bố rằng cô ấy hiền lành,
ngoan ngoăn. Thậm chí quá hiền lành, quá ngoan ngoăn, đến
nỗi con có cảm tưởng là cô ấy không có
thật, con sợ. Một người "b́nh thường"
th́ phải biết dối trá, biết thay đổi,
biết mưu mô, biết thủ đoạn. Đằng này
cô ấy không biết ǵ là xấu xa, v́ vậy cô ấy
không phải là người b́nh thường. Con không dám
yêu một người không b́nh thường đâu
bố ạ,...".
Ở một đoạn
khác sau đó là câu chuyện giữa cô gái "không b́nh
thường" trên với người chị ruột
của chàng sinh viên kia: “ ... Chị ơi, anh
ấy bỏ em rồi - Nhưng nó có nói tại sao không? -
Người chị hỏi - Có, anh ấy bảo là tại
em… ngoan quá nên anh ấy chán. Anh ấy thích hư cơ...”.
Hăy bỏ qua một bên lối triết lư cùn,
vụn của chàng sinh viên kia, người xem sẽ
nhận ra ngay một điều: trong xă hội Việt Nam
hôm nay, những điều cầnmấtth́ lại c̣n,
những điều cần c̣n th́ lại mất.Có
những gia đ́nh cả ba, bốn thế hệ cùng
phạm tội. Và theo tôi, trong tất cả những
sự sụp đổ th́ sự sụp đổ về
nhân cách là đau đớn nhất, khó khắc phục
hậu quả nhất.
Chẳng những
ở thành phố, làng quê Việt Nam trước đây
vốn thanh b́nh là vậy th́ nay cũng ào ào như thác
đổ . Chúng ta hăy đọc sau đây trích đoạn
câu chuyện giữa một ông giáo làng đă có tuổi
với người vợ lẽ của ông ta, trong bộ
phim Thương Nhớ Đồng Quê :
"…
Tôi không sợ làng xóm chê cười, mặc xác họ. Tôi
chỉ dặn cô một điều: có ngủ với ai
nhớ đ̣i tiền, không có tiền th́ lấy... thóc
hay gà, vịt thế vào, chứ đừng ngủ không
."
(ông này quả là cũng
đă có "đổi mới tư duy", nhưng
chắc là đổi chưa
"tới
bến". Chứ thời buổi này trong
những trường hợp như vậy, mấy ai c̣n
mang những thứ quang quác, quàng quạc ấy ra mà trao
đổi nữa!) .
- Những nỗi
bất công hôm nay:
Cũng ở phim
Khoảng Cách nói trên, một cô gái làm ở nhà hàng
Karaoke ôm đă tâm sự trong nước mắt như sau:
“... Em biết chị khinh em, nhưng em làm
việc này lâu quá thành quen mà quên mất đó là
việc làm đáng xấu hổ, đáng khinh bỉ.
Chị đă nhắc cho em nhớ đến thân phận
nhục nhă của ḿnh. Em nhớ lại hồi đầu
em cũng xấu hổ lắm, nhưng nhà em th́ nghèo, làm
ở đấy một ngày đủ nuôi cả nhà em
cả tháng chị ạ. Những người khách vào hát
với em họ đều là những người giầu
có, lịch sự. Họ nhiều tiền lắm, họ làm
ǵ mà nhiều tiền thế? Họ đ̣i hỏi bọn
em phải phục vụ họ, nhưng tại sao bọn
em th́ bị khinh rẻ? C̣n họ? Họ vẫn được
kính trọng. Nhà em th́ nghèo, mà làm lụng từ sáng
đến tối chứ có lười đâu?”.
“
Họ làm ǵ mà nhiều tiền thế?”. Cô gái kia có thể không giải đáp
được câu hỏi ấy. Nhưng chỉ cần suy
luận một chút, chúng ta cũng có thể sơ bộ
nắm được thực chất của vấn đề:
Những đồi
núi bị san lấp, những cánh rừng bị tàn phá,
đất đai bị cho thuê, bán, sang nhượng,
biển cả bị tận khoan và những khoản
nợ xấu khó đ̣i hàng trăm ngàn tỷ đồng
Việt Nam,… tất cả kết hợp lại đă
tạo ra một thiểu số người cực kỳ
giầu có, đầy quyền hành. “Lịch sự”
đấy, song cũng lố bịch, hợm hĩnh và
nhẫn tâm đấy, so với đại đa số nhân
dân là nghèo khó, nhọc nhằn với một tương
lai bất ổn. Họ hầu như không nhận
được ǵ trong những nguồn thu từ đất,
biển, núi, rừng hoặc sự vay mượn nói trên.
Ở Việt Nam hôm nay “gió đă xoay
chiều”, mọi việc không phải như
một khẩu hiệu mà trước đây Lênin từng
đưa ra: “Tước đoạt của những
kẻ đitước đoạt!” mà đă xuất
hiện cơ man nào những kẻ nhẫn tâm đi tước
đoạt của những con người đă bị tước
đoạt đến cùng cực.
Cũng trong bộ
phim Thương Nhớ Đồng Quê, có đoạn đối
thoại giữa một thầy giáo ở thành phố
về nông thôn dạy học, với một cô gái từ
Mỹ về thăm gia đ́nh như sau :
“...
Cô thấy cách làm việc của người nông dân bây
giờ có khác trước kia không? Vẫn con trâu đi trước
cái cày đi sau, vẫn dựa vào sức lực cơ
bắp của con người là chính. Khoa học kỹ
thuật chưa giúp ǵ được cho họ.
- Nhưng tôi
thấy ở nông thôn nhiều nhà cũng có điện
đấy chứ ?
- Có điện
đấy, nhưng giá điện cao gấp 2 - 3 lần
ở thành phố, không ai dám dùng nhiều. Nông phẩm làm
ra rất rẻ, trong lúc giống má, phân bón, thuốc
trừ sâu,... người nông dân phải mua với giá
cao. Khốn nỗi họ thường bị bọn con buôn
ở thành phố lường gạt, có khi mua về toàn
đồ giả. Hồi chiến tranh ra trận nhiều
nhất là nông dân, hy sinh nhiều nhất cũng là người
nông dân, cô xem, trên bàn thờ nhà nào hầu như cũng
có
1 - 2 người
chết trẻ. Bây giờ hết chiến tranh rồi,
họ vẫn tiếp tục nai lưng, đổ mồ hôi
trên cánh đồng để tự tồn tại, chưa
kể những lúc thiên tai như hạn hán, lũ
lụt,...
-Tôi
nghe nói ở nhà dư thừa thóc gạo, lại c̣n để
xuất khẩu nữa?
-Đúng đấy, nhưng có ai
chỉ ăn gạo mà sống hả cô?
-Th́ bán thóc đi, rồi mua
những thứ khác.
-Cô có biết giá bao nhiêu
một cân thóc không? 2000 đ, bằng 1/5 lon bia ở thành
phố. C̣n hoa mầu ư? Cô không nghe người ta ví
sao? Một điếu thuốc lá đánh ngă 10 củ xu hào,...
Dân thành phố chúng ta đều có tội. Chúng ta tàn phá
họ bằng những lạc thú vật chất của ḿnh,
bóc lột họ, vô trách nhiệm đối với
họ. Trong lúc người nông dân phải gánh vác bao nhiêu
thứ nghĩa vụ, nhưng có ai có nghĩa vụ đối
với họ đâu?...”.
Nếu hôm nay ai có về nông thôn sẽ
thấy tất cả những điều trên đều
khá xác thực. Duy chỉ có điều “Dân
thành phố chúng ta đều có tội”th́
không hẳn là như vậy: rất nhiều người
dân thành phố đă làm bao điều thật có ích cho
nông thôn, c̣n những kẻ có tội với những người
dân lương thiện ở cả thành phố lẫn nông
thôn th́ không chỉ có dân thành phố. Những nhà tư
bản đỏ, những kẻ cường hào, ác bá, lư
trưởng đời mới đă xuất hiện “trù
mật” trên khắp mọi miền đất
nước. Hễ ĐCS Việt Nam càng hô hào
chống buôn lậu, tham nhũng, hối lộ bao nhiêu, th́
con số những tội phạm thuộc loại này
lại càng sinh sôi, nảy nở nhanh và nhiều bấy
nhiêu.
Để kết thúc
phần này, tôi xin ghi lại ư kiến sau đây của
một đảng viên cộng sản có hơn 50 năm
tuổi đảng - Ông sang Úc du lịch thăm con cháu:
“…
Tất nhiên mọi so sánh đều khó tránh được
sự khập khiễng, nhưng có thể nhận xét
một cách đại thể rằng: những ǵ mà trước
đây, khi đi làm cách mạng bác vẫn hằng tin tưởng
và nguyện dấn thân cho một xă hội XHCN tưởng
là tốt đẹp; rằng mọi người ai cũng
được b́nh đẳng, ai cũng được nhà
nước chăm lo đầy đủ về miếng cơm,
manh áo. Ốm đau được chữa bệnh
miễn phí, ai muốn học th́ được đi
học bất kể tuổi tác, v.v. th́ chúng lại đang
ở bên này. C̣n những ǵ được cho là xấu
xa, bóc lột và bất công của xă hội tư bản
th́ nó lại đang ở Việt Nam.
Thể chế dân
chủ ở đây bảo đảm để những
nhà làm chính trị phải thực sự là của dân, do
dân và v́ dân. Nếu anh làm tốt, lần bầu cử
sau dân lại tín nhiệm anh. Nếu anh làm không tốt
để cho dân bất tín nhiệm th́ xin mời các anh
về củng cố lại đội ngũ, để
cho đảng khác lên làm. Đảng nào th́ cũng có
những anh lem nhem, bê bối. Nhưng dân chưa kịp
trị mấy anh đó bằng lá phiếu, th́ đảng
của anh ta đă trị anh ta trước rồi. Đơn
giản là v́ họ nghĩ rằng nếu đảng ḿnh
làm không tốt, không nghiêm th́ kỳ bầu cử sắp
tới, chắc chắn cử tri sẽ phạt đảng
của họ thôi. Mà thực tế là họ đă
phạt được. Đấy mới là điều quan
trọng.
Không có chuyện
kiểu như bên nhà ḿnh, làm th́ dở mà cứ hứa hươu
hứa vượn với dân là: rồi Đảng sẽ
nghiêm khắc tự kiểm điểm. Chứ Đảng cũng
đau ḷng lắm! Đảng “đau” từ
kỳ đại hội này sang kỳ đại hội khác.
Từ thế kỷ nọ sang thế kỷ kia, nhưng
vẫn cương quyết không chịu san xẻ
“nỗi đau” ấy cho ai. Nhân dân, cán bộ, chiến
sỹ muốn đóng góp ǵ th́ đóng góp, xây dựng ǵ
th́ xây dựng. Riêng cái điều 4 Hiến pháp th́ đă
khoanh đỏ rồi, biết điều th́ chớ có
đụng vào.
Phong trào góp ư cho
bản Hiến pháp năm 1992 đang được phát
động rầm rộ hiện nay ở trong nước,
lại thêm một bằng chứng nữa chứng minh cho
nhận xét này. Xét về mặt h́nh thức, người
có suy nghĩ đơn giản thường dễ bị
ngộ nhận rằng đất nước đă có dân
chủ. Nhưng xét về thực chất, nó cũng
chẳng khác nào tṛ chơi tô mầu của con trẻ mà
thôi.”
5 - Những lời
thay cho kết luận :
Tôi đă từng
đứng lặng hàng giờ trên bến Cảng Sài G̣n,
khi con tầu thủy mang tên Thống Nhất cập
bờ. Đó là những chuyến tầu đầu tiên
đưa hành khách từ miền Bắc vào miền Nam sau
năm 1975. Có rất nhiều người đi trên
tầu là những cán bộ miền Nam tập kết nay
được trở về quê hương. Dưới chân
tầu, những người thân ruột thịt đang nôn
nao đón chờ họ.
Những nỗi
mừng khôn xiết của ngày gặp lại, những
nụ cười rạng rỡ và những giọt nước
mắt đoàn viên. Nhiều người v́ quá xúc động
đă ngất lịm đi trong ṿng tay người thân. Hơn
21 năm trước đây, họ cũng người trên
tầu - người dưới bờ, giơ 2 ngón tay cùng
hẹn ước với nhau rằng: 2 năm sau nhất
định sẽ gặp lại, khi cuộc Hiệp thương
tổng tuyển cử, thống nhất đất nước
được thực thi. Thế rồi hoàn cảnh đă
không chiều ḷng họ, để hôm nay - Ngày tái
hợp, dẫu họ có giơ 2 lần của cả hai bàn
tay cũng vẫn chưa đủ cho số năm xa cách.
Lúc ấy, với
tuổi học sinh vô tư, tôi đă không mấy lưu tâm
đến việc có biết bao bạn bè cùng trang lứa
với ḿnh đang có cha, anh họ phải đi học
tập cải tạo. Lại càng không hay biết ǵ
về chuyện có nhiều ngàn thường dân vô tội
đă bị chết oan khiên, tức tưởi tại
Huế - xuân 68; cùng với biết bao nỗi đau thương
khác nữa mà nhân dân miền Nam đă phải gánh
chịu.
Sau này vào kư túc xá,
chúng tôi cùng ăn, ở, học hành chung, cùng chia xẻ
với nhau từng gói ḿ tôm, từng đồng bạc
cuối cùng và những chuyện vui - buồn khác, tôi
mới hiểu thêm về những nỗi đau của các
bạn ḿnh. Đúng là sự vô tư nhiều khi lại
đồng nghĩa với sự vô tâm đến đáng
trách. Những sự khác biệt ban đầu bởi
nhiều yếu tố cũng đă từng ngăn cách, nhưng
thời gian và nhất là tấm ḷng chân thành đă giúp
chúng tôi ngày càng xích lại gần nhau hơn. Rất
nhiều người đă cảm mến, rồi thương
yêu nhau rồi nên vợ nên chồng, đấy là
thực tế. Nó đă, đang và sẽ vẫn tiếp
tục diễn ra theo đúng quy luật của cuộc
sống.
Theo tôi, xét về cơ
bản th́ trong nội bộ dân tộc ta đă tự hàn
gắn được cho nhau những vết thương
của quá khứ. Thời gian như một phép mầu
đă giúp cho t́nh tự dân tộc và tính nhân bản
của người Việt Nam ngày càng được
phục hồi và chiến thắng tất cả. Nhưng
một điều cũng rất hợp với quy luật
là: khi những vết thương kia càng được hàn
gắn nhanh bao nhiêu th́ lại càng bộc lộ sâu
sắc hơn mâu thuẫn cơ bản của dân tộc
ta hôm nay bấy nhiêu - Đó là mâu thuẫn giữa đại
bộ phận dân tộc, không phân biệt hoàn cảnh
xuất thân, tôn giáo, sắc tộc, vùng, miền, quốc
gia định cư, v.v… với một thiểu số
hiện đang cố duy tŕ thể chế chính trị
độc đảng ở Việt Nam . Và mâu thuẫn này
là đối kháng không có cơ sở dung ḥa;
một khi mà nguyên nhân sinh ra nó vẫn c̣n nguyên đó.
Tôi tin rằng trong
một tương lai gần, cái gọi là “Cuộc
cách mạng XHCN ở Việt Nam ” nhất
định sẽ phải thôi gào thét. Cũng như Ư
thức hệ Cộng Sản, cùng với những hệ
lụy tai hại của nó dứt khoát sẽ phải ra
đi trên đất nước ta. Nó không tạo ra
được động lực cho sự phát triển
của đất nước th́ nó phải ra đi. Đó là
chân lư đơn giản và rơ ràng. C̣n hiện nay th́ nó
đang vay mượn không hề có Khế ước xă
hội và hoàn toàn sống cộng sinh vào dân tộc!
Những người
dân chủ Việt Nam hôm nay muốn đưa ra lời kêu
gọi cùng đồng bào của ḿnh rằng:
Muốn
chống bất công, đói nghèo, tụt hậu. Muốn
hoàn thành những mục tiêu của một nước
Việt Nam mới, nhằm ḥa nhập được
tốt vào thế giới hiện đại; ngoài con
đường dân chủ, đa nguyên, đa đảng và
pháp trị, nhân dân Việt Nam không có con đường
nào khác!
Nhưng khác hẳn
về chất với cung cách ra quyết định cố
hữu của ĐCS Việt Nam như trên đă tŕnh bày,
họ đề nghị một cách làm dân chủ mang
tầm vóc toàn dân tộc:
Với vị
thế chính trị hiện nay của ḿnh, ĐCS Việt Nam hăy
tạo điều kiện để dân tộc ấy
được thể hiện ư chí và nguyện vọng
của họ, thông qua một cuộc Trưng Cầu
Dân Ư về nội dung của lời kêu gọi trên.
Hoặc về bất cứ điều ǵ mà từ trước
đến nay mà những thế lực bảo thủ trong
ĐCS Việt Nam vẫn cứ luôn nói một cách lấy
được rằng: “Đó là sự lựa
chọn của nhân dân và lịch sử, là ước mơ
ngàn đời của dân tộc Việt Nam .”(!?)
Tháng
8 năm 2001
Mạng
Lưới Nhân Quyền Việt Nam
[Trang
nhà] [Về MLNQ]
[Luật Nhân Quyềnn]
[Tài liệu] [Tin
nhân quyền] [Diễn
đàn] [Tham gia]
[Tải xuống] [Liên
kết]