Suy nghĩ về nhận thức lại
Phương Nam –
Australia
Đất nước
30 năm cầm súng
Mà vầng trăng c̣n xẻ làm đôi.
Vào giai đoạn
cuối của cuộc chiến tranh, có ai đó đă
viết nên hai câu thơ trên để nói lên tâm trạng
day dứt của ḿnh trước nỗi đau đất
nước vẫn c̣n bị chia cắt. Có lẽ anh là người
lính Trường Sơn ra đi từ một vùng quê nào
đó trên đất Bắc, hoặc anh là một cán
bộ miền Nam tập kết nay được trở
về với quê mẹ thân yêu. Niềm tin và ước
vọng của anh là mong sao cho đất nước
sớm được thống nhất, núi sông liền
một dải, để Bắc - Nam xum họp một nhà.
Chúng ḥa với nỗi day dứt trên rồi quyện
lại như những lời trong một bài hát quen
thuộc ngày ấy:
“
... Thôn quê tro tàn bay, phố lớn tơi bời cháy, ra
đi ước hẹn ngày về thăm quê, một ngày
mai khải hoàn vui chan ḥa,...”
Rồi ngày 30 tháng 4
năm 1975 đến, nếu c̣n sống có thể anh cũng
sẽ có mặt ở một trong năm cánh quân lớn
hội tụ về thành phố Sài G̣n, và như bao đồng
đội khác của ḿnh, anh đi giữa Sài G̣n mà
ngỡ như đi trong mơ, rồi tự hỏi: sao ta
vẫn như ngây thơ khi tuổi đă lớn rồi?
Một cách tự nhiên anh có những dự phóng về tương
lai: Tổ Quốc ta từ nay đă vĩnh viễn
sạch bóng xâm lăng, rằng sẽ không có chuyện người
Việt Nam thắng người Việt Nam mà chỉ có người
Việt Nam thắng Mỹ. Rồi đây cả nước
sẽ cùng chung sức, chung ḷng đi lên chủ nghĩa xă
hội, v.v…
Nhưng đấy là
chuyện của ngày mai, c̣n lúc này đây anh muốn ḥa
nỗi vui riêng của ḿnh với niềm vui chung của
đồng chí, đồng bào mà hát vang những lời
ca cách mạng : “... Sài G̣n ơi! Đây Hà Nội cùng
với Huế thân yêu, Trung - Nam - Bắc một nhà, cùng hát
khải hoàn ca. Sài G̣n ơi! có vui sướng nào
bằng, giữa thành phố tên vàng, Sài G̣n hát ca tên Người:
Hồ Chí Minh muôn năm, Hồ Chí Minh muôn năm!...”.
Nhà thơ Tố
Hữu vào những ngày tháng ấy cũng đă viết :
Ôi,
nỗi mừng dâng mọi nỗi mừng
Trào vui nước mắt cứ rưng rưng
Cả Việt Nam tiến công, cả Miền Nam nổi
dậy
Dồn dập tim ta, trăm trận thắng bừng
bừng.
Ôi, buổi trưa nay, tuyệt trần
nắng đẹp
Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta
Chúng con đến, xanh ngời ánh thép
Thành phố tên Người lộng lẫy cờ hoa.
Cho chúng con giữa vui này được khóc
Hôn mỗi đứa em, ôm mỗi mẹ già
Như ḷng Bác, mỗi khi Bác đọc
Đồng bào Miền Nam, mắt kính bỗng nḥa.
Chúng con sẽ gấp trăm lần mạnh
Đứng gác biển trời tươi mát màu lam
Bởi có Bác từ nơi đây ra đi t́m Đường
kách mệnh
Cho chúng con nay được trở về, vĩnh
viễn Việt Nam !
(Tố
Hữu - Toàn Thắng Về Ta - 1.5.1975)
Tuy nhiên, cũng rất có thể anh lại
thuộc một trong thiểu số những người khác
“tiêu cực” hơn, với biết bao câu hỏi cứ
quay cuồng trong đầu, mà nếu chỉ với
những ǵ được nhà trường, quân đội
giáo dục và đào tạo từ trước tới nay
thôi th́ không sao giải đáp nổi. Đó là:
- Tại sao trên những chặng đường
tiến quân từ Tây Nguyên xuống miền duyên hải
rồi về thành phố, nhưng cứ hễ ḿnh
giải phóng đến đâu th́ đồng bào Miền
Nam lại hốt hoảng chạy trước đến
đó? Rơ ràng nếu chỉ để tránh ḥn tên, mũi
đạn th́ cứ ở nhà có khi lại c̣n an toàn hơn.
Vậy là đồng bào ḿnh chạy đi tránh cái ǵ?
- Tại sao chỉ có tiến công mà không có
phong trào nổi dậy của quần chúng? Tại sao
số lượng những Cô gái Sài G̣n đi tải
đạn lại ít hơn ḿnh tưởng rất
nhiều? (!) Như vậy "Vầng trăng"
của dân tộc nay đă ḥa làm 1 hay lại c̣n chia 5,
xẻ 7?
Và nữa: liệu cuộc chiến tranh này có
thể tránh được hay không?
Kiên trong Nỗi Buồn Chiến Tranh của
nhà văn Bảo Ninh có thể là một trong những người
như vậy. Anh cũng có mặt ở sân bay Tân Sơn
Nhất vào cái ngày 30 tháng 4 năm ấy, nhưng trước
những niềm vui đến tột cùng của đồng
đội th́ anh lại không sao vui được.
Chiến tranh với bao nỗi mất mát chia ly của
cả dân tộc, của đồng đội và của
chính ḿnh chợt ùa về và ập vào tâm hồn anh. Chúng
như những ngọn lửa đốt cháy tâm can anh,
khiến anh đau đớn. Kiên khác với đa số
và tất nhiên anh cũng khác với nhà thơ Tố
Hữu.
Hôm nay đây, cũng giữa những ngày tháng
4 này, khi chiến tranh đă có độ lùi hơn một
phần tư thế kỷ và nhất là khi đất nước
vừa bị phân hóa sâu sắc, vừa bị tụt
hậu quá xa so với thế giới th́ lại càng
cần có những chàng Kiên biết đau trong ḥa b́nh, cũng
như trước kia họ đă biết buồn trong
chiến tranh. Thực chất chính là việc nhận
thức lại những vấn đề lớn đă
diễn ra trong lịch sử dân tộc ta ở thế
kỷ 20 vừa qua, xem cái nào là thực sự có giá
trị, cái nào không? Từ đó mới có cơ sở
tốt để t́m được lối ra cho đất
nước hôm nay.
Phần I - Chiến tranh:
Những nguyên nhân sâu xa của hai cuộc
chiến tranh Đông Dương
(1946 - 1975): tháng 5 năm 1945, Berlin được
giải phóng, phát xít Đức đầu hàng không điều
kiện phe đồng minh, nhưng phải hơn 3 tháng
sau, vào ngày 15 tháng 8 th́ cuộc chiến tranh thế
giới thứ II mới thực sự kết thúc, đánh
dấu bằng sự đầu hàng của Nhật Hoàng.
Nước Mỹ tuy cũng trực tiếp
tham chiến, nhưng trong khi gần như cả thế
giới kiệt quệ, th́ do những lợi thế, đặc
biệt là về mặt địa lư đă giúp nước
này vươn lên sau chiến tranh với nhiều cái
nhất: giầu nhất (có nền công nghiệp, nông
nghiệp phát triển mạnh mẽ và có lượng vàng
dự trữ lớn nhất thế giới,…). Có
tiềm lực quân sự mạnh nhất, kể cả
việc nắm độc quyền và sau đó vẫn
nắm ưu thế về vũ khí nguyên tử trong
một thời gian, v.v...
Tất cả đă đưa nước
Mỹ trở thành một cường quốc đứng
đầu thế giới tư bản, mà nhiều người
c̣n gọi là thế giới tự do hay thế giới dân
chủ .
Trong một diễn biến lớn khác là
sự ra đời của một loạt bảy nước
XHCN nữa ở Đông Âu, các nước này cùng với hai
nước Liên Xô và Mông Cổ h́nh thành nên một
hệ thống XHCN thế giới gồm 9 nước do Liên
Xô đứng đầu. (thực ra c̣n có thêm Nam Tư,
nhưng đă bị Stalin “rút phép thông công” vào năm
1948, khi ông ta cho rằng tổng thống Ti Tô của nước
này đă đi chệch hướng XHCN.). Sau có thêm
bốn nước vẫn c̣n sót lại đến ngày nay
là CHDCND Triều Tiên (Bắc Hàn) - 1948, Trung Quốc - 1949,
Cu Ba - 1959 và Việt Nam. (miền Bắc 1954, cả nước
sau 1975)
Mỹ và Liên Xô tuy là đồng minh giai
đoạn của nhau trong chiến tranh thế giới
thứ II, nhưng điều đó không đủ để
hai nước này tiếp tục giữ được
mối quan hệ ấy trong ḥa b́nh. Sự khác biệt
về ư thức hệ vốn có đă lấn át tất
cả, với những vết rạn nứt được
ghi nhận ngay từ hội nghị Yalta tháng 2.1945, khi
chiến tranh đang bước vào giai đoạn cuối
ác liệt. Chúng phát triển ngày càng lớn để
trở thành mâu thuẫn sâu sắc và bao trùm nhất, chi
phối toàn bộ mối quan hệ của hai nước
trong giai đoạn mới và cuối cùng chuyển hẳn
sang thế đối đầu. Sự đối đầu
của hai nước lớn đă kéo theo sự đối
đầu của cả hai phe. Cuộc chiến tranh
lạnh trên thế giới bắt đầu.
Cũng sau năm 1945, hệ thống thuộc
địa trên thế giới đă bị rung chuyển
mạnh với phong trào đ̣i độc lập của các
nước thuộc địa ngày càng dâng cao. Phần
lớn các nước này trong chiến tranh đều
đă cùng phe đồng minh gồm các nước lớn
như Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô chống phát xít. Nay họ
lại được hệ thống XHCN mới ra đời
vừa trực tiếp, vừa gián tiếp hết ḷng
động viên, cổ vũ cho nguyện vọng chính
đáng của ḿnh.
Đứng trước t́nh h́nh ấy, các nước
chủ thuộc địa lớn trên thế giới lúc
bấy giờ như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà
Lan, Bỉ,… bị đẩy vào t́nh thế khó khăn
buộc phải lựa chọn: một là chủ động
trao trả lại quyền độc lập cho các nước
thuộc địa (thông qua các giai cấp quư tộc
hoặc tư sản bản địa), giúp các nước
này phát triển kinh tế và lôi kéo họ vào quỹ
đạo của ḿnh. Hai là cứ tiếp tục cố
giữ cho bằng được quyền cai trị như
cũ, để rồi rất có thể sẽ bị nhân
dân các nước ấy vùng lên giành lại quyền
độc lập và sau đó là rơi vào quỹ đạo
của chủ nghĩa cộng sản. Cân nhắc kỹ
lợi hại, họ đă chọn phương án I;
bởi v́ nguy cơ bành trướng của phong trào
cộng sản nói chung và của hệ thống XHCN nói riêng
mới là lớn nhất, nó lấn át những mối
lợi mà các nước thuộc địa có thể
đem lại cho họ.
Ở đây lại càng nổi bật lên
vai tṛ lănh đạo số 1 của nước Mỹ
đối với thế giới tư bản: khi th́ khuyên
nhủ, động viên; khi phải dùng đến sức
ép viện trợ kinh tế nhằm “thuyết phục”
các nước đồng minh của ḿnh. Để thực
hiện được điều này nước Mỹ cũng
đă gặp rất nhiều khó khăn. Bởi v́ do sinh
sau đẻ muộn nên nước Mỹ có rất ít
thuộc địa, trong khi các nước như Anh, Pháp,…
lại có rất nhiều. Không phải là các nước
kia đă chấp thuận dễ dàng ngay từ đầu,
nhưng cuối cùng họ đă nhận ra nguy cơ
của vấn đề và đồng ư với quyết tâm
của phía Mỹ. V́ vậy chỉ trong ṿng bốn năm
từ 1945 -1949 đă có hàng loạt nước trên
thế giới vốn là các nước thuộc địa
hay bảo hộ nhận được quyền độc
lập, mà không phải qua con đường khởi nghĩa
vũ trang hay bạo động. (trong bài Việt Nam Đất
Nước Tôi, viết tháng 6.2000, tôi đă có liệt kê
một loạt nước như vậy).
Thậm chí như trường hợp
của Malaysia : tuy các phong trào khởi nghĩa vũ trang
để cướp chính quyền, kể cả phong trào
cộng sản ở nước này đă bị đàn áp
và thất bại nặng nề nhưng vẫn được
chính phủ Anh trao trả lại quyền độc
lập vào năm 1957. Miễn là Mỹ và các nước
đồng minh của Mỹ yên tâm rằng: đất nước
ấy sẽ không đi vào quỹ đạo của CNCS, và
đấy chính là sự may mắn cho Malaysia và nhiều dân
tộc khác trên thế giới.
(một điểm nữa để thấy
rơ hơn: Mỹ và Nhật hoặc Mỹ, Anh, Pháp với
Tây Đức là những nước từng đánh nhau chí
tử trong chiến tranh thế giới thứ II, nhưng
đă dễ dàng trở thành đồng minh của nhau
trong ḥa b́nh, v́ các nước này đều cùng có chung
một ư thức hệ, cùng có quyết tâm ngăn
chặn phong trào cộng sản đang có xu hướng bành
trướng mạnh mẽ.)
Trường hợp của xứ Đông Dương
thuộc Pháp, trong đó có Việt Nam th́ vấn đề
lại có nét đặc thù: nước Pháp lúc đầu
quay trở lại Đông Dương là ḥng muốn cướp
lại vùng đất thuộc địa cũ đă
mất; nhưng sau đó, nước Pháp cũng buộc
phải theo xu hướng chung là t́m cách trao trả
lại nền độc lập cho vùng đất này.
Vấn đề đặt ra là họ sẽ trao lại
cho ai để bảo đảm rằng: Việt Nam nói riêng
và xứ Đông Dương nói chung sẽ không bị rơi
vào quỹ đạo của CNXH.
Người Pháp buộc phải nghĩ đến
giải pháp Bảo Đại, mặc dù trong thâm tâm họ cũng
biết rơ uy tín của vị cựu hoàng này đối
với dân tộc Việt Nam là rất giới hạn:
thời Pháp cai trị, ông làm vua th́ nhất nhất theo
lệnh Pháp. Đúng ngày 9.3.1945 khi Nhật đảo chính Pháp
th́ ông c̣n đang bận đi săn. Sau đó, trước
t́nh cảnh hai triệu đồng bào ta ở miền
Bắc bị chết đói th́ ông cũng không có lấy
một hành động nào khả dỹ chấp nhận
được, để an ủi các “thần dân”
của ḿnh. Ông không có cái dũng khí của các vị vua
cũng của triều Nguyễn như: Hàm Nghi, Thành Thái,
Duy Tân trước đó.
Mặc dù vậy trong năm 1947 nước
Pháp vẫn đăng kư với Liên Hiệp Quốc
rằng: các nước Đông Dương là các quốc gia
độc lập và hai năm sau tại điện Elysée,
đích thân tổng thống Pháp Vincent đă chính thức
trao trả lại quyền độc lập cho Việt Nam
vào ngày 8.3.1949 với đại diện là cựu hoàng
Bảo Đại. Sau đó là cho Lào 20.7.1949 với quốc vương
Sisavangvong và Campuchia ngày 8.11.1949 với quốc vương
N.Sihanouk.
Khách quan mà nhận xét rằng so với
cựu hoàng Bảo Đại th́ uy tín của chủ
tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc lúc
ấy là cao hơn nhiều: một Hồ Chí Minh lănh
tụ Việt Minh đă nhạy bén với t́nh h́nh,
sớm trở về nước để cùng với
bộ tham mưu của ông chỉ đạo phong trào cách
mạng. Một Hồ Chí Minh biết kịp thời
ủng hộ khẩu hiệu “Phá kho thóc
Nhật, cứu dân!”, đă thực sự
đi vào ḷng người. V́ ơn ấy có thể ví như
ơn cứu mạng đối với nhiều triệu
đồng bào ta ở Miền Bắc lúc bấy giờ.
Ông cũng có những hành động khéo léo về
mặt kỹ thuật để tranh thủ sự ủng
hộ của quần chúng và cũng biết cách che
giấu nhân dân nguồn gốc cộng sản của ḿnh,
...
Trong một diễn biến khác, người
ta cũng thấy đa số lănh tụ của các đảng
phái lớn lúc ấy như các cụ Nguyễn Hải
Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, v.v…
vẫn c̣n lừng khừng măi ở biên giới Việt -
Trung chưa chịu về. (chỉ đến sau ngày 2.9.45
các cụ mới theo chân đoàn quân của Tưởng
Giới Thạch, do các tướng Lư Hán, Tiêu Văn
cầm đầu vào Việt Nam để tước vũ
khí quân Nhật). Dỹ nhiên nói như vậy, tôi không có
ư định phủ nhận ḷng yêu nước của các
cụ, càng không có ư phủ nhận công lao của các
đảng phái khác trong thành công của Cách Mạng Tháng
8; mà chỉ muốn nói lên sự thiếu nhạy bén
đối với t́nh thế cách mạng Việt Nam lúc
ấy của các lănh tụ nói trên.
Nhưng người Pháp vẫn dứt khoát
không chịu trao trả lại nền độc lập
cho Việt Nam thông qua CT Hồ Chí Minh, mặc dù trên danh
nghĩa lúc ấy, ông là chủ tịch chính thức
của Chính Phủ Liên Hiệp nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Ḥa, do quốc hội khoá I bầu ra tháng 3
năm 1946. Bởi v́ hơn ai hết, họ biết
rất rơ nguồn gốc của ông là người
của Quốc Tế Cộng Sản III hoạt động
tại vùng Đông Nam Á. Hồ sơ về ông đă
được cảnh sát Pháp mở ra từ gần 30 năm
trước tại Paris, và họ vẫn thường theo
dơi bước chân ông từ thuở ấy, tuy có
những lúc họ cũng đă có phần chủ quan, lơ
là. V́
vậy cả người Pháp lẫn người
Mỹ đều lo ngại về một nước
Việt Nam cộng sản sau đó, và sự lo ngại
ấy theo họ là hoàn toàn có cơ sở. Điều này cũng
giải thích v́ sao mà tổng thống Mỹ H. Truman đă
hơn một lần làm ngơ trước những
bức thư của CT Hồ Chí Minh viết vào năm
1947, đề nghị nước Mỹ hăy giúp ông
lấy lại nền độc lập từ tay người
Pháp.
T́nh h́nh lại càng trở nên nghiêm
trọng hơn đối với thế giới tư
bản sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, nước
CHND Trung Hoa ra đời vào ngày 1.10.1949. (theo đánh giá
của nhiều nhà sử học Mác xít th́ nó có ư nghĩa
như “ Một quả tạ ném vào
một đĩa cân, làm cho cán cân lực lượng nghiêng
hẳn về phe XHCN ”.). Những nhà
lănh đạo mới ở đấy, đứng đầu
là Mao Trạch Đông, dù nay đă khoác áo cộng sản nhưng
bản chất bá quyền nước lớn có từ ngàn
năm xưa là không thay đổi. Họ không hề che
giấu ư đồ muốn bành trướng lănh thổ
sang các nước khác trong khu vực. (xem bản đồ
do Trung Quốc vẽ th́ cũng thấy rơ dă tâm này). Trước
tiên họ muốn dùng hai bán đảo Triều Tiên và
nhất là Đông Dương làm bàn đạp. V́ vậy
hai điểm nóng trong điều kiện chiến tranh
lạnh trên thế giới đă có nguyên do trực
tiếp là vậy.
Ở Việt Nam ngay từ đầu năm
1950, nước CHND Trung Hoa đă nhanh chóng công nhận chính
phủ kháng chiến của CT Hồ Chí Minh và thiết
lập quan hệ ngoại giao ở cấp đại
sứ (sau đó mới là Liên Xô và các nước XHCN khác).
Cuối năm 1950 Việt Nam mở chiến dịch Biên
Giới để thông thương với Trung Quốc và
các nước khác trong phe XHCN. Đầu năm 1951 ĐCS Đông
Dương nhóm họp đại hội lần thứ II
tại Tuyên Quang, dưới sự chủ tọa của
chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết định tách ba
đảng của ba nước Đông Dương ra cho phù
hợp với t́nh h́nh cách mạng của mỗi nước.
Riêng Việt Nam đổi tên thành Đảng Lao Động
Việt Nam (năm 1976 đổi thành ĐCS Việt Nam), trong
điều lệ mới của đảng ghi rơ:
“ ... ĐLĐ Việt Nam lấy học
thuyết Mác - Ănghen - Lênin - Stalin và tư tưởng
Mao Trạch Đông, kết hợp với thực tế
của cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng
của đảng và kim chỉ nam cho mọi hành động...”.
(có người bảo rằng nghe nó
giống món lẩu thập cẩm của các bà nội
trợ!).
Rất nhiều người từng hăng hái
đi theo kháng chiến từ năm 1945 đă bỏ
về sau sự kiện này, bởi v́ đấy không
phải là lư tưởng mà họ hằng theo đuổi.
Trước những diễn biến dồn
dập sau sự xuất hiện của yếu tố Trung
Quốc đă khiến cho nước Mỹ càng tích
cực hơn với vai tṛ của ḿnh. Họ ráo riết
thực hiện những mục tiêu chiến lược
đă vạch ra cùng các nước đồng minh.
Tổng thống Mỹ, giai đoạn 1945 – 1953 H.Truman tuyên
bố:
“ ... Hoa Kỳ phải giúp bất cứ
quốc gia nào có sự đe dọa của cộng
sản”
và“... Nếu một quốc gia ở
Đông Nam Á rơi vào tay cộng sản th́ các quốc gia khác
sẽ lần lượt lọt vào tay cộng sản như
một dăy cờ domino vậy”.
Bốn đời tổng thống Mỹ sau
ông chỉ là sự tiếp nối ở những mức
độ khác nhau trong việc cụ thể hóa những
quan điểm trên.
Hàng loạt các hiệp ước quân
sự song phương hoặc đa phương đă
được nước Mỹ thúc đẩy kư kết
sau đó ở khu vực châu Á - Thái B́nh Dương như:
ANZUS kư với Australia và Newzealand năm 1951, Mỹ -
Nhật rồi Mỹ - Philippines (1951), Mỹ - Nam Hàn (1953),
Mỹ - Anh - Pháp với Australia - Newzealand - Philippines - Pakistan
- Thái Lan năm 1954 (SEATO). Tất cả kết hợp
với NATO ở châu Âu, CENTO ở Trung Đông,.. tạo nên
một mạng lưới an ninh pḥng thủ liên hoàn
với nhiều tầng nấc trên khắp thế
giới, đều nhằm mục đích ngăn chặn
nói trên.
Chẳng những là tích cực với
chiến tranh lạnh, nước Mỹ cũng đă
trực tiếp nhảy vào cuộc chiến tranh nóng trên bán
đảo Triều Tiên (1950 - 1953).
Rồi nước Mỹ cũng hoàn toàn không
yên tâm trước sự yếu kém về quân sự
của nước Pháp tại chiến trường Đông Dương
(nguyên do là nền kinh tế nước Pháp vẫn chưa
gượng dậy nổi sau chiến tranh thế giới
thứ II, nay lại càng khó khăn hơn khi yếu tố
mới Trung Quốc xuất hiện quá ư “năng động”!).
V́ vậy từ chỗ chỉ gián tiếp giúp đỡ,
nước Mỹ đă t́m cách thay chân nước Pháp
để trực tiếp nhảy vào can thiệp. Cuộc
chiến tranh Đông Dương lần II (1954 -1975) đă có
thêm một nguyên nhân sâu xa là vậy.
Từ những tŕnh bày trên ta có thể rút
ra những nhận xét sau :
a) Nếu như cuộc chiến tranh Đông Dương
lần thứ I (1946 -1954) lúc đầu chủ yếu là
do nước Pháp muốn chiếm lại vùng đất
thuộc địa cũ của họ,
th́ càng về sau tính chất của cuộc
chiến càng thay đổi; để vừa trở thành
điểm nóng của cuộc đối đầu
giữa hai phe, vừa chứa đựng những mưu
đồ bành trướng của chính quyền Bắc
Kinh đối với Việt Nam nói riêng và các nước
trong khu vực nói chung.
b) Dù cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 có
diễn ra hay không, thành công hay thất bại th́ người
Pháp cũng sẽ vẫn quay trở lại Đông Dương.
Nhưng sau đó, như trên đă tŕnh bày họ cũng
buộc phải trao trả lại nền độc
lập cho các nước này vào khoảng giai đoạn
từ 1945 đến những năm 1950s. T́nh h́nh chung trên
thế giới và hầu hết các nước trong khu
vực Đông Nam Á đều đă chứng minh như
vậy. Tôi cũng vẫn muốn một lần nữa
nhấn mạnh rằng: đấy là thực tiễn
lịch sử mang tính phổ quát, chứ không hề có ư
định làm cái anh chàng “Khổng Minh sau trận đánh”,
lại càng không có ư phủ nhận ư nghĩa lịch
sử của cuộc Cách Mạng Tháng 8. Bởi v́ đây
là chiến công chung của dân tộc ta ở cả 3
miền Bắc – Trung – Nam và mọi người Việt
Nam đều có quyền tự hào về nó.
c) Về mặt h́nh thức th́ việc nước
Mỹ trực tiếp đưa quân vào miền Nam
Việt Nam tham chiến, rồi sau đó mở rộng
chiến tranh phá hoại ra Miền Bắc bằng cả không
quân và hải quân là một cuộc chiến tranh xâm lược.
Nhưng mục đích thực sự của Mỹ là
muốn ngăn chặn phong trào cộng sản tràn
xuống toàn vùng Đông Nam Á. Đấy không phải là
một cuộc chiến tranh xâm lược nhằm tranh giành
thuộc địa của người Pháp. V́ nếu là
như vậy, nước Mỹ đă có những động
thái khác rất dễ nhận ra.
Những ư kiến khác như: do sự thúc
đẩy từ phía sau hậu trường của
giới lái súng hoặc của giới tài phiệt trong các
ngành công nghiệp phục vụ chiến tranh của
Mỹ, theo tôi cũng là những nguyên nhân, nhưng không
phải là nguyên nhân chính, chúng chỉ là phụ và có tính
hệ quả sau đó .
Nước Mỹ cùng các đồng minh
của Mỹ đă nhảy vào can thiệp ở Việt
Nam rồi bị sa lầy ở đây. Cuối cùng đă
phải rút quân theo Hiệp Định Paris - Tháng 1.1973 - Đó
là thực tế. Nếu xét trên khía cạnh này th́ nước
Mỹ đă bị thất bại nặng nề. Nhưng
nếu xét ở b́nh diện lớn hơn, liên quan tới
mục tiêu ngăn chặn phong trào cộng sản trên
phạm vi toàn cầu th́ họ đă đạt được
mục tiêu chiến lược của ḿnh. Cụ thể
là: ở Đông Nam Á, phong trào cộng sản chỉ tràn
được xuống vùng Đông Dương rồi bị
mất đà không thể đi tiếp. Các vùng khác trên
thế giới t́nh h́nh cũng là như vậy và cuối
cùng, cả thế giới đă chứng kiến sự
sụp đổ của toàn hệ thống XHCN.
d) Nguyên nhân của cuộc chiến tranh kéo
dài 30 năm ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói
riêng trước hết và chủ yếu là xuất phát
từ các yếu tố bên ngoài và yếu tố thời
đại. Chúng có tính giai đoạn, chứ không
phải chủ yếu xuất phát từ những mâu
thuẫn trong nội bộ dân tộc hoặc giữa các dân
tộc trong bán đảo Đông Dương với nhau. V́
vậy hôm nay, khi những nguyên nhân trên đă mất
đi th́ trong nội bộ dân tộc ta, cũng như
giữa 3 nước Đông Dương với nhau là hoàn toàn
có cơ sở để hàn gắn những vết thương
đă phát sinh trong quá khứ.
Ngay cả giữa hai dân tộc Việt -
Mỹ cũng là như vậy: hôm nay xét trên b́nh diện
quốc tế th́ mâu thuẫn giữa hai ư thức hệ
xưa kia đă đi vào dĩ văng, sau sự sụp đổ
của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Sẽ
thật là vô lư khi những mâu thuẫn đă mất
đi rồi mà vẫn c̣n duy tŕ thế đối đầu;
trừ những người cứ cố t́nh muốn duy tŕ
nó cho những mục đích thiếu lương thiện
của họ.
e) Nếu cho rằng CT Hồ Chí Minh và các
đồng chí của ông đă bằng mọi nỗ
lực đưa dân tộc vào quỹ đạo của
CNXH th́ đúng. Nhưng nếu lại cho rằng đấy
là con đường duy nhất để Việt Nam giành
được quyền độc lập là sai. Lại càng
sai hơn nữa khi gắn vào đấy những giá
trị như: dân chủ, tự do, b́nh đẳng, bác ái,
hạnh phúc, ấm no, v.v…
Để rơ hơn nhận xét này, ta
thấy: trong giai đoạn từ 1954 đến 1969 là năm
CT Hồ Chí Minh qua đời, th́ những sự kiện
lớn như các chiến dịch cải cách ruộng
đất, cải tạo công thương nghiệp tư
bản tư doanh, tập trung cải tạo những người
từng phục vụ cho Pháp trước năm 1954, các
vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, Xét Lại Chống Đảng,…
vẫn diễn ra ở miền Bắc, khiến cho biết
bao người bị bắt oan, chết oan, tài sản
của họ bị tước đoạt, v.v… khi mà ông
vừa là chủ tịch nước Việt Nam DCCH, kiêm
chủ tịch Đảng Lao Động Việt Nam. Ông cũng
là người tán thành và tích cực ủng hộ
bản Đề Cương Đường Lối Cách Mạng
Miền Nam , do ông Lê Duẩn đề xướng; mà
nội dung cơ bản của nó là: dùng bạo lực
để thống nhất đất nước.
Nói lên những vấn đề trên tôi không
có ư định quy kết lỗi lầm cho CT Hồ Chí
Minh, một người đă mất trên 30 năm. Hơn
nữa dẫu có muốn th́ cũng không ai làm lại
được lịch sử, mà chỉ muốn nói
rằng: bao năm qua nhân dân Việt Nam đă phải nghe
quá nhiều và quá lâu những điều đại
loại như: “Miền Nam nhớ măi ơn Người”hay
“Đảng đă mang về tuổi xuân cho nước
non”, v.v… th́ hôm nay cả dân
tộc cần thiết phải định lượng
lại những giá trị ấy, chúng có ít hay nhiều?
Thực hay ảo?
Tôi đă liều ḿnh “lấn sân” để
làm cái công việc của các nhà sử học đáng kính,
v́ đây không phải là lĩnh vực chuyên môn của tôi.
Tôi tin rằng các nhà sử học Việt Nam sẽ càng
ngày càng nhận ra thực chất của những vấn
đề trên. Chắc chắn khi có điều kiện
để viết đúng với suy nghĩ của ḿnh,
nhất là các nhà sử học trong nước th́ các anh
chị sẽ viết tốt hơn tôi rất nhiều. Điều
quan trọng là chúng ta có đủ can đảm để
nh́n thẳng vào sự thật hay không? Dù có khi phải
trải qua một cuộc giải phẫu đau đớn,
nhưng sau đó mới có thể làm cho dân tộc
hồi sinh. Ngược lại, nếu chúng ta cứ
tiếp tục ngoảnh mặt làm ngơ hoặc tiếp
tay cho những yếu tố tiêu cực ẩn nấp, th́
chúng lại tiếp tục ḱm hăm và làm hại dân
tộc mà thôi.
Chiến tranh với biết bao chia ly, mất
mát mà rất ít gia đ́nh Việt Nam nào có thể tránh
được. Nó cũng làm cho 58.000 gia đ́nh người
Mỹ có thân nhân bỏ mạng ở vùng đất Đông
Dương xa xôi. Ngay như nước Úc thanh b́nh này cũng
đă bị cuốn hút vào đấy, để rồi cũng
đă có hơn 500 quân nhân tử trận. Tất cả
những vết thương ḷng ấy đều không
phải dễ dàng chữa lành trong một sớm, một
chiều. Chúng ta hăy đọc một đoạn nhật
kư sau trong thời kỳ chiến tranh:
Ly, con mẹ.
9 - 5 - 1968.
Ly con mẹ tṛn 17 tháng. Một ngày đẹp
và thân yêu làm sao. Ly ơi, ngày hôm nay ở Mễ có
nắng không? Con c̣n ở Mễ hay đă ra Hà Nội
rồi? Mẹ đang ở giữa rừng, rừng tràn
ngập ánh nắng và bừng sáng lên như chúc mừng
con thân yêu. Mẹ nghĩ đến con ngay từ lúc
mở mắt ra. Mẹ thầm nhủ một ḿnh : Hôm nay
con ta đă 17 tháng rồi. Con đă lớn lên một tháng
mà mẹ không biết. Một tháng qua con sống ra sao
hả Ly? Con có khỏe không? Có bị sốt, bị đi
ỉa chảy hay không? Chắc con quên mẹ rồi.
Mẹ cũng mong con chóng quên mẹ đi để con
đỡ nhớ. C̣n mẹ: lúc nào mẹ cũng nghĩ
đến con, nhớ con nhiều lúc tưởng như không
chịu nổi. Sáng nay có lần bỗng dưng mẹ hét
to lên: Hôm nay con tôi tṛn 17 tháng đây .
(Tiếng Việt lớp 6 tập 1 - NXB Giáo
Dục 1997. Tr 52)
Người mẹ thương nhớ con
hết mực nhường ấy đă không bao giờ
được gặp lại đứa con thân yêu của
ḿnh nữa, chị đă ngă xuống tại chiến trường
khu 5 một năm sau đó, khi mới ở tuổi 27.
Chị là nhà văn Dương Thị Xuân Quư đă cùng
chồng là nhà thơ Bùi Minh Quốc xung phong vào chiến
trường và gửi đứa con gái duy nhất của
hai người ở lại nơi hậu phương. (xem
thêm về nhà thơ Bùi Minh Quốc, website:
http://members.aol.com/vietnamgo/nhanvat.htm).
Dân tộc ta ở cả hai miền Nam -
Bắc, phía bên này hay phía bên kia, trong những cuộc
chiến tranh vừa qua, đă có hàng triệu gia đ́nh
phải chịu đựng những mất mát lớn lao
như vậy.
(theo những số liệu thống kê
từ các nguồn khác nhau, đều đưa ra con
số là có khoảng từ 3 đến 4 triệu người
chết trong chiến tranh.).
Nói về sự nhận thức lại, tôi
muốn được nói đến trường hợp
của nhà thơ Tố Hữu. Tôi không có mối liên
hệ nào trực tiếp với ông, nhưng v́ có
nhiều người đă ví ông như “Người thư
kư của cách mạng Việt Nam” trong thế kỷ 20
vừa qua, nên đó là lư do để tôi viết
những ḍng sau đây: Trong chiến tranh đă có biết
bao thế hệ đọc thơ ông, nhiều người
đă mang theo nó trên khắp các nẻo đường
mặt trận. Bởi v́ có lẽ ông đă nói giúp
họ về nỗi đau đất nước bị
chia cắt
... Ai về với quê hương ta tha
thiết
Sông Hương, Bến Hải, Cửa Tùng.
Ai vô đó với đồng bào, đồng chí
Nói với nửa - Việt Nam yêu quư
Rằng: nước ta là của chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng ḥa!
Chúng ta con một cha, nhà một nóc
Thịt với xương tim óc dính liền...
(Ta
Đi Tới - tháng 8.1954)
Và ước mơ về một ngày mai
khải hoàn, vui chan ḥa:
...
Ta lại về ta những đứa con
Máu ḥa trong máu đỏ như son
Sài G̣n ơi, Huế ơi! Xin đợi
Tái hợp huy hoàng cả nước non!
(Việt
Nam Máu Và Hoa - Xuân 1973)
Bao lớp người đă ra trận
với tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước”, bao lớp người đă
nằm xuống hoặc để lại một phần
tuổi trẻ, thân thể của họ ngoài chiến trường,
c̣n ông th́ ở lại với ngôi nhà Lộng Gió của
ḿnh. (măi tới năm 1973, sau Hiệp Định Paris, ông
mới vào Miền Nam trong 1 chuyến đi ngắn và có bài
thơ Nước Non Ngàn Dặm - Tam Đảo, hè 1973). Thơ
ông nói nhiều đến máu và động viên, cổ vũ
cho sự đổ máu, nhưng là máu dân tộc, máu đồng
bào, trừ máu ông!
Trong bài Chào Năm Mới 2001 vừa qua, ông
lại viết :
...
Ta lắng nghe náo loạn những âm thanh
Tiếng rạn vỡ những lâu đài tư bản
Bọn lái súng, ngân hàng, nghênh ngang ngạo mạn
Gào trong đêm “ toàn cầu hóa”, “văn minh”
Xiềng mạ vàng xiết chặt cả hành tinh
Và tiếng gầm vang của nhân dân phẫn nộ
Quét sạch lũ bất lương, xây dựng
lại cơ đồ sụp đổ
Cho sáng lại quê hương Cách Mạng Tháng Mười
Đổi mới Liên Xô và cả loài người
Giành lại chủ quyền, tự do, hạnh phúc.
(Tố
Hữu - tháng 12.2000)
Bất cứ một người đọc
nào hôm nay, dù chỉ có một chút tinh thần nh́n
nhận lại thôi cũng thấy rằng: Tố Hữu
của thế kỷ 21 cũng chẳng khác ǵ so với
Tố Hữu của mấy chục năm về trước,
trong thế kỷ 20. Thế giới nào vẫn đang
tồn tại ? C̣n “lâu đài” nào đă đổ
vỡ? Những Tiếng gầm vang của nhân dân
phẫn nộ hôm nay là ǵ? Nếu ông đă nhớ
tới Liên Xô, tới Cách Mạng Tháng 10, th́ tôi cũng
rất mong ông nhớ tới bài diễn văn đầy
tính thuyết phục và dũng cảm của cựu
Tổng bí thư ĐCS Liên Xô M. Goóc-ba-chốp ( Mikhail
Gorbachev), đọc tại lễ kỷ niệm 70 năm Cách
Mạng Tháng 10 Nga (7.11.1917 - 7.11.1987).
Đó là một bản tổng kết rất sâu
sắc và đầy đủ về hệ thống XHCN nói
chung và Liên Xô nói riêng. Đặc biệt M. Goóc-ba-chốp
đă chứng minh rất thuyết phục rằng: hệ
thống ấy đă có những khuyết tật bẩm
sinh ngay từ khi nó vẫn c̣n ở trên giấy, và nay - 70
năm sau khi nó ra đời th́ khuyết tật ấy
đă ph́nh ra quá lớn. Toàn hệ thống phải can
đảm nh́n nhận và quyết tâm giải phẫu nó,
nhằm bắt tay vào xây dựng lại từ đầu.
Cũng chính v́ điều này mà ông sẵn sàng đánh
đổi cả sự nghiệp chính trị của
bản thân. Nhưng trong dịp kỷ niệm lần
thứ 70 ngày sinh của ḿnh vừa qua, ông đă phát
biểu: đóng góp lớn nhất của đời ông là
đă góp phần đưa Liên Xô tiến lên trên con
đường dân chủ hoá và ông tự hào về điều
đó.
Có những người ở Việt Nam
đến hôm nay vẫn c̣n t́m cách đổ lỗi cho
M.Goóc-ba-chốp, họ cho rằng ông đă phản
bội lại hệ thống XHCN thế giới. Nhưng
theo tôi đó là do họ không có tinh thần trung thực và
dũng cảm như ông, rồi cứ loanh quanh t́m cách
lẩn tránh sự thật.
Tố Hữu cũng vậy, tôi thấy ông
nhắc nhiều đến những chuyện từ 50 - 60
năm về trước, nhưng c̣n chuyện xảy ra
gần hơn th́ lại ít thấy ông nhắc đến:
chẳng phải là vào năm 1985, khi c̣n là Ủy viên
bộ chính trị, kiêm Phó chủ tịch thứ nhất
Hội Đồng Bộ Trưởng, đặc trách kinh
tế, ông cũng đă góp phần không nhỏ gây ra
thảm họa cho đất nước, qua việc tích
cực hoạch định và chỉ đạo thực
hiện chính sách Giá - Lương - Tiền đó sao?
Chuyện cũ đă qua, nhưng nếu ông đă nh́n
lại quá khứ th́ cũng rất mong ông có cách nh́n sao
cho toàn diện hơn. Tôi thành thực mong ông như
vậy và xin hẹn gặp lại ông ở phần II,
với tiêu đề: Ḥa B́nh.
(Australia
- Tháng 4.2001)
Phần II - Ḥa B́nh:
Vào những ngày tháng ḥa b́nh đầu tiên
sau bao năm dài chiến tranh, nhà thơ Tố Hữu đă
viết:
... 29 năm dằng dặc xa quê
nay mới về thăm mừng tái tê
mới được nghe giọng hờn dịu
ngọt
Huế giải phóng nhanh, mà anh lại muộn về.
(trích
Bài Ca Quê Hương, tháng 5.1975)
Trong Vui Thế, Hôm Nay - ông viết tiếp:
... Tôi lại nh́n như đôi mắt
trẻ thơ
Tổ Quốc tôi chưa đẹp thế bao giờ
xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biển
xanh trời, xanh của những giấc mơ
tôi bay giữa màu xanh giải phóng
tầng thấp, tầng cao, chiều dài, chiều
rộng
Ôi Việt Nam! yêu suốt một đời
nay mới được ôm Người trọn
vẹn, Người ơi!.
(tháng
8.1975)
Những nỗi mừng tái tê, những
giọng hờn dịu ngọt, những giấc mơ xanh
và những cú bay với đủ mọi tầng nấc,
kích cỡ kia th́ ai mà không muốn. Thế nhưng, để
đánh đổi chúng th́ dân tộc đă phải
trả giá quá đắt. Bởi v́ chiến tranh nào
phải tṛ đùa! Chẳng phải đâu xa, ngay ở
Huế quê hương ông thôi cũng có biết bao người
ở cả hai phía đă phải ngă xuống, trong đó
có hàng ngàn thường dân vô tội đă bị
chết oan khiên, tức tưởi trong dịp tết
Mậu Thân năm 1968, với những hố chôn người
tập thể lấp vội vă. Ông không biết hay đă
cố t́nh thờ ơ với những nỗi đau
của đồng loại như vậy? Theo tôi có lẽ
đó là do cái “Tinh thần Ba Đ́nh” đă nhiễm quá
nặng vào trong ông, kể từ năm 1954 khi ông về Hà
Nội. Ở Việt Nam hôm nay có bao nhiêu người
"giầu tinh thần Ba Đ́nh" như Tố Hữu?
Trong Chân Dung Và Đối Thoại, nhà thơ
Trần Đăng Khoa đă nhận xét:
“ ... Tố Hữu nh́n cách mạng bằng con
mắt lăng mạn của một thi sỹ. Thơ ông dường
như chỉ có một giọng. Đó là giọng hát tưng
bừng ca ngợi cách mạng. Đọc ông trong bất
cứ hoàn cảnh nào và tâm trạng nào, ta cũng
thấy phấn chấn, náo nức như đi trẩy
hội. Đến đâu cũng nghe vang vang tiếng
trống, tiếng kèn,.nghĩa là không có chỗ nương
náu cho những nốt lạc điệu, xa lạ và
trầm buồn. Đôi khi những nỗi vu vơ có ở
thời Từ Ấy lại lần theo một con đường
riêng nhuốm màu thiên nhiên, ch́m lẩn trong tiềm
thức mà t́m về với ông, th́ ông lại tự xoá
đi, để tiếng hát ông chỉ c̣n một âm hưởng
chủ đạo. Âm hưởng vui bất tuyệt...”.
(Chân
Dung Và Đối Thoại, NXB Thanh Niên 1998, Tr.9)
Thế nhưng có đúng là con đường
đi của cả dân tộc ta từ tháng 8.1945 đến
nay là luôn “vui bất tuyệt” hay không ? Đă có nhiều
người viết về nó, tôi cũng đă cố
gắng bổ xung thêm trong những bài viết trước
của ḿnh.
Chúng ta hăy tạm gác lại những nỗi
buồn của chiến tranh. Ở phần này tôi xin
được tŕnh bày về sự khác nhau giữa
những ước mơ lăng mạn năm xưa trong thơ
Tố Hữu so với thời ḥa b́nh hôm nay, theo cách nh́n
riêng của ḿnh và của hai nhà thơ khác.
Trong bài Lăo Đầy Tớ, chàng trai 18
tuổi Tố Hữu đă viết :
... Ông đă nghe ai nói
có một xứ mênh mông
nửa Tây và nửa Đông
mạnh giầu riêng một cơi?
nơi không vua, không quan
không hạng người ô uế
không hạng người nô lệ
sống đau xót, lầm than.
nơi tiêu diệt ḷng tham
không riêng ai của cải
hàng triệu người thân ái
cùng chung sức nhau làm
để cùng nhau vui sướng
ai già nua tật nguyền
th́ cứ việc ngồi yên
đă sẵn tiền nuôi dưỡng.
ai cũng có nhà cửa
cũng sung sướng bằng nhau?
đă không ai đè đầu
làm chi có đầy tớ?
cậu bảo: cũng không xa?
- nước Nga?
- ờ nước ấy
và há mồm khoan khoái
lăo ngồi mơ nước Nga.
(Huế
tháng 6.1938)
Ông lăo đầy tớ th́ đă chết
từ lâu, mang theo những giấc mơ đẹp nhưng
cũng quá ư viển vông của lăo. C̣n nhà thơ năm
ấy th́ hơn nửa thế kỷ sau đă chứng
kiến cảnh cả Đông Âu và Liên Xô XHCN sụp đổ.
Thế mà hôm nay bất chấp những ǵ đă diễn
ra, ông lại tiếp tục một giấc mơ huyễn
hoặc “Cho sáng lại quê hương Cách
Mạng Tháng Mười”!
Theo tôi vùng đất ấy nhất định
sẽ sáng lại và đổi mới thành công theo con
đường dân chủ đa nguyên - Đó là xu hướng
tiến bộ của nhân loại ngày nay. Dân tộc Nga vĩ
đại, từng chịu nhiều đau thương
xứng đáng được hưởng những giá
trị đó. Xong dứt khoát dân tộc ấy sẽ không
bao giờ quay trở lại con đường của CNXH
nhất nguyên, độc đảng như Tố Hữu
hy vọng. Bởi v́ hơn ai hết, họ cũng như
nhân dân ở tất cả các nước thuộc Liên Xô
cũ và Đông Âu quá thấm thía những ǵ mà CNXH đă gây
ra. Nó thoạt nghe th́ tưởng là nhân ái và “sung sướng
bằng nhau”, là “nơi không vua, không quan, không
hạng người ô uế”, v.v… nhưng trong
thực tế th́ lại hoàn toàn khác .
CNXH rất dễ thâm nhập vào giai cấp
cần lao, vào những người như ông lăo đầy
tớ kia, đó là sự thật không ai chối căi. Nhưng
lại rất khó khăn để những người
dẫn dắt nó chịu tự nguyện rời bỏ
thế độc quyền lănh đạo, một khi mà
họ đă nắm được quyền lực;
mặc cho t́nh h́nh đất nước có bi đát và
tang thương đến đâu đi chăng nữa. Và
cũng chính giai cấp cần lao là giai cấp bị
phản bội trước tiên và nặng nề nhất
ngay sau đó; kể cả việc phải gánh chịu
những nỗi đau đớn của “sự phê phán
bằng vũ khí”, do bộ máy chuyên chính vô sản gây
ra. Thực tế 4 nước XHCN c̣n sót lại đến
nay, trong đó có Việt Nam vẫn đang tiếp tục
chứng minh rất rơ điều này.
Cũng ngày xưa trước cách mạng,
Tố Hữu đă từng xót xa cho những cô gái
phải bán ḿnh trên ḍng sông Hương:
... Trên ḍng Hương Giang
em buông mái chèo.
trăng lên trăng đứng trăng tàn
đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi ḍng.
trời ơi em biết khi mô
thân em hết nhục dày ṿ năm canh
t́nh ôi gian dối là t́nh
thuyền em rách nát c̣n lành được không?
răng(sao) không, cô gái trên sông
ngày mai cô sẽ từ trong ra ngoài
thơm như hương nhụy hoa lài
sạch như nước suối ban mai giữa rừng
ngày mai gió mới ngàn phương
sẽ đưa cô tới một vườn đầy
xuân
ngày mai trong giá trắng ngần
cô thôi kiếp sống đày thân giang hồ
ngày mai bao lớp đời dơ
sẽ tan như đám mây mờ đêm nay
cô ơi tháng rộng ngày dài
mở ḷng ra đón ngày mai huy hoàng.
(Tiếng
Hát Sông Hương - Huế tháng 8.1938)
Thế rồi cái “ngày mai huy hoàng” ấy
như nhà thơ mong đợi cũng đă đến. Và
cứ giả sử rằng hôm nay với tuổi 81, ông không
c̣n đủ điều kiện tiếp tục…
xuống chiếc thuyền nan năm nào để lấy tư
liệu viết bài nữa! Nhưng ít ra ông cũng có
thể h́nh dung được phần nào bức tranh
về các nàng Kiều Việt Nam hiện đại, thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng ở
ngay trong nước. Bức tranh ấy là:
Những “đám mây mờ” đêm
xưa trên ḍng Hương Giang mà ông từng xót xa,
chẳng những đă không tan đi mà c̣n tích tụ thêm
cơ man nào những đám mây mới. Những nàng
Kiều Việt Nam hôm nay không đơn thuần chỉ là
"lính thủy đánh thủy" nữa, mà c̣n có
"lính thủy đánh bộ", rồi "lính bộ
đánh thủy". Kiều có mặt ở cả "ba
vùng chiến lược" với đầy đủ
"các mũi giáp công". Kiều "xuất khẩu
tại chỗ" và Kiều lặn lội sang đất
lạ xứ người. Lại có những nàng Kiều
"đă dùng qua nhưng vẫn c̣n y như mới" và
có người tuy đă bước vào tuổi 50 rồi,
nhưng v́ không c̣n cách mưu sinh nào khác nên vẫn đành
phải “yêu nghề”(!)
Xong nh́n chung là tuổi đời của
họ đă ngày càng giảm xuống. Thậm chí ở
thủ đô Phnompenh - Campuchia, có 4 chị em ruột
tuổi chỉ từ 13 đến 16, quê ở một vùng
đất thuộc miền Tây Nam Bộ - Việt Nam đều
“công tác cùng ngành"(!). Theo tôi
bất cứ một người Việt Nam nào, dù đang
sống ở trong hay ngoài nước, chỉ cần có
một chút ḷng tự hào dân tộc thôi, cũng đều
phải cúi mặt xấu hổ trước t́nh trạng
các cô gái Việt Nam bị hành hạ nơi đất khách
quê người, như thực tế đă và đang
diễn ra ở Campuchia, Trung Quốc, Hồng Công, Đài
Loan,…
Tôi rất muốn những trang viết này
đến được tay nhà thơ Tố Hữu để
nhắn gửi với ông rằng:
Nếu hôm nay ông vẫn c̣n lại một chút
ǵ của sự xót xa, như năm xưa trên ḍng Hương
Giang th́ tốt hơn cả là ông hăy làm một điều
ǵ đó, dẫu chỉ là về mặt tinh thần để
an ủi những em bé đáng thương hơn là đáng
trách kia - chúng chỉ đáng tuổi cháu ông. Chứ không
phải Nguyễn Du th́ khóc quanh thân Kiều, c̣n ông th́
cứ khóc quanh Nguyễn Du! (cho dù là khóc thật đi chăng
nữa). Riêng tôi, tôi cầu mong sao cho các em bớt bị
khinh miệt, đánh đập, trả được
hết nợ, tránh được bệnh tật để
một ngày nào đó có thể trở về được
trên đất Mẹ Việt Nam thân yêu.
Những nàng Kiều th́ là như vậy,
thế c̣n những em Phước thời nay th́ sao? Chúng
ta hăy trở lại với em Phước của Tố
Hữu hơn 60 năm trước:
... Rứa là hết chiều ni em đi măi
c̣n mong chi ngày trở lại Phước ơi!
quên làm sao, em hỡi, lúc chia phôi
bởi khác cảnh hai đứa ḿnh nghẹn nói
em len lét cúi đầu tay xách gói
áo quần dơ, cắp chiếc nón le te
vẫn chưa thôi, lời day dứt nặng nề
hàng dây tiếng rủa nguyền trên miệng chủ!
biết không em, nỗi ḷng anh khi đó?
nó tơi bời đau đớn lắm em ơi!
th́ em hỡi! đi đi, đừng tiếc nữa!
ngại ngùng chi nấn ná chỉ thêm phiền!
đi đi em, can đảm bước chân lên
ừ đói khổ đâu phải là tội lỗi!
anh mới hiểu: càng ngậm ngùi khổ tủi
càng dày thêm uất hận của ḷng ta
nuôi đi em, cho đến lớn, đến già
mầm hận ấy trong lồng xương ống máu
để thêm nóng mai kia hồn chiến đấu
mà hôm nay anh đă nhóm trong ḷng!
(Đi
Đi Em - Huế, tháng 2.1938)
Em Phước ra đi, rồi ông anh có
nỗi ḷng “tơi bời đau đớn”
ấy cũng ra đi, rồi cách mạng thành công trên
nửa nước và sau đó là cả nước theo
đúng ước vọng của “ông anh”! Thế nhưng
hôm nay hăy thử làm một bản thống kê trong cả
nước xem có bao nhiêu em Phước? 100 ngàn? 200 ngàn hay
bao nhiêu? Báo chí trong nước có đăng về trường
hợp một em bé gái, tuổi chỉ mới lên 10. V́
cuộc sống quá khó khăn nên cha mẹ em đă không
thể nuôi nổi em. Dời gia đ́nh ra đi, em xuôi
từ một tỉnh thuộc miền núi phía Bắc
về một thành phố phương Nam xa xôi. Tôi không
biết là số phận của em giờ đây ra sao? Nhưng
bé bỏng như thế, lại là con gái, mà phải ly hương
tự ḿnh kiếm sống th́ chắc chắn là lành ít
dữ nhiều thôi.
Cũng vào tháng 8.1954, sau chiến thắng Điện
Biên Phủ, trên đường về lại thủ đô
Hà Nội, với tâm trạng “phơi phới, náo
nức như đi trẩy hội”, nhà thơ Tố
Hữu đă làm bài Ta Đi Tới, trong đó có một câu
hỏi: Các em ơi, đă học chưa? Và hôm nay
- gần nửa thế kỷ sau, nếu chịu để
ư nắm t́nh h́nh xă hội một chút th́ ông sẽ
thấy ngay là nhiều em chưa học lắm!
Tiền đâu mà đóng kinh phí xây dựng trường
sở? Rồi lại c̣n học phí, sách vở, giấy bút,…?
Thời gian đâu mà đến trường, trong khi các
em phải ưu tiên lo toan đến miếng cơm, manh áo
trước đă? Đúng! Chế độ
ấy rơ ràng đă làm ông thỏa măn, nó là miếng Bánh
Thật của ông :
Miền Bắc thiên đường của các
con tôi!
(Tố
Hữu - Bài Ca Mùa Xuân 1961)
Nhưng nó lại là những miếng Bánh
Vẽ, Những Thiên Đường Mù, những Bến Không
Chồng và những Thuyền Nhân Không Mộ,… của
biết bao nhiêu triệu con người Việt Nam, trong
đó có rất nhiều các em thơ. Tôi cũng không rơ là
hôm nay ông có c̣n muốn các em nuôi những mầm
hận ấy hoặc nhóm lên những hồn
chiến đấu ngày xưa nữa hay thôi? Và
nếu có th́ hướng vào ai đây?
Cũng may là dân tộc không phải ai cũng
như ông. Một người cùng thời với ông - nhà
thơ Chế Lan Viên vào những năm tháng cuối
của cuộc đời ḿnh đă có những suy tư
khác. Tập Di Cảo với những bài như Bánh
Vẽ, Trừ Đi!…được những người
vốn yêu tác giả của Điêu Tàn thuở tiền
chiến lại càng trân quư và cảm phục ông hơn. Có
người nhận xét rằng đấy là miếng “vơ
độc”, là miếng “đà đao” cuối đời
của nhà thơ tài danh này. Nhưng theo tôi, đấy chính
là sự nhận thức lại - Một sự nhận
thức lại đau đớn, xong cũng thật dũng
cảm. Dẫu có là muộn màng, nhưng có vẫn c̣n hơn
không. Trong bài Bánh Vẽ, ông viết :
... Chưa cần cầm lên nếm, anh đă
biết là bánh vẽ
thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
cầm lên nhấm nháp
chả là nếu anh từ chối
chúng sẽ bảo anh phá rối
đêm vui!
rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
như không có ǵ xảy ra hết.
Và trong Trừ Đi!:
... Có phải tôi viết đâu? một
nửa
cái cần viết vào thơ, tôi đă giết đi
rồi!
giết một tiếng đau, giết một tiếng
cười,
giết một kỷ niệm, giết một ước
mơ.
anh bảo đấy là tôi?
không phải!
nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
đă giết đi bao nhiêu cái
có khi không có tội như ḿnh!
Nhưng điển h́nh nhất trong tập
Di Cảo ấy, theo tôi có lẽ là bài Ai, Tôi? ông viết
năm 1987 (xin xem phần phụ lục 1, cuối bài). Chính
những sự ú ớ, xấu hổ trong nỗi buồn
tủi chua cay của ông khi gặp lại người lính
cũ, 12 năm sau ḥa b́nh lại toát lên tính nhân bản
muôn vạn lần hơn những âm hưởng vui
bất tuyệt kia. Nếu ai đă từng đọc
thơ ông làm trong chiến tranh lại càng thấy rơ hơn
sự thay đổi này. Nào đâu phải trước
đó thơ ông không có những âm hưởng vang vang
tiếng trống, tiếng kèn tưng bừng ca
ngợi cách mạng và cổ vũ mọi người xông
lên phía trước:
... Hỡi sông Hồng tiếng hát 4000 năm
Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng
chưa đâu! và ngay cả trong những ngày đẹp
nhất
khi Nguyễn Trăi làm thơ và đánh giặc.
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa
thành văn,
khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc,
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng.
những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp
hơn tất cả
dù mai sau đời muôn vạn lần hơn!
chọn thời mà sống chăng?
Anh sẽ chọn năm nào đấy nhỉ?
cho tôi xin ra buổi Đảng dựng xây đời.
cho tôi sinh giữa những ngày diệt Mỹ.
vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy
bên những dũng sỹ đuổi xe tăng ngoài
đồng và hạ trực thăng rơi.
(Tổ
Quốc Bao Giờ Đẹp Thế Này Chăng, 1965.)
và:
Giết chúng đi, chỉ c̣n một
đường thôi: giết chúng
Ôi hôm nay ḷng ta như họng súng.
(Suy
Nghĩ, 1966.)
hoặc là:
Miền Nam ta ơi,
cái hầm chông là điều nhân đạo nhất!
(Cái
Hầm Chông Giản Dị.)
Cũng cùng tinh thần nhận thức
lại như thi sỹ họ Chế, một người
thuộc thế hệ sau ông - nhà thơ Nguyễn Duy đă
có bài Nh́n Từ Xa Tổ Quốc! ( xem phụ lục 2 ). Bài
thơ là một sự tổng kết khá đầy đủ,
là sự đan quyện chặt chẽ giữa những ǵ
đă diễn ra của thời đạn bom xưa
với thời ḥa b́nh nay. Cũng chính v́ bài thơ này mà
trên báo Nhân Dân số ra ngày 11.9.1989 đă đăng
một bài b́nh luận, trong đó có những lời
kết tội tác giả của nó như sau : “...Thóa
mạ Tổ Quốc không tiếc lời, chửi bới
hung hăn đến nỗi nói về cuộc kháng chiến
chống Mỹ bằng những lời mỉa mai, cay độc,…”.
Nhưng theo tôi Nguyễn Duy chỉ thóa
mạ những giá trị không có thực, đánh đổ
những thần tượng giả Một người
đi chật cả con đường, lột trần
những mặt nạ Dù dối nữa cũng không
lừa được nữa, khôn và ngu cũng có tính
mức độ và đập mạnh vào những
điều ngụy biện, dối trá,… thông qua bút pháp
thơ thật sâu sắc và độc đáo của anh.
Anh cho rằng tất cả những điều ấy
chẳng có ích ǵ cho dân tộc hôm nay, mà ngược
lại chỉ làm hại hoặc ít ra là ăn bám.
Ai càng yêu Tổ Quốc ḿnh lại càng
cần phải có tinh thần suy nghĩ lại như
Nguyễn Duy, như Chế Lan Viên và như biết bao
những chiến sỹ dân chủ Việt Nam khác. Họ
đang xuất hiện ngày càng nhiều, họ chính là
những niềm hy vọng của một nước
Việt Nam mới khác hẳn về chất: không phải
là một CHXHCN Việt Nam đă và đang t́m đủ
mọi cách “tu sửa vặt” như hiện nay. Cũng
không phải là quay trở về với một Việt Nam
DCCH trước kia hay một Việt Nam Cộng Ḥa bị
đứt quăng nay nối lại. Tất cả những
chế độ này tuy mức độ có khác nhau, nhưng
xét về thực chất đều là mất dân chủ
và chịu sự phụ thuộc nặng nề vào nước
ngoài. Một nước Việt Nam mới phải là
một nước Việt Nam dân chủ đa nguyên, đa
đảng và pháp trị, phù hợp với xu thế
tiến bộ của thời đại mới. Chừng nào
c̣n chế độ độc đảng như ở
Việt Nam hiện nay th́ chừng đó ngay cả
những mục tiêu của Cuộc Cách Mạng Dân Tộc
Dân Chủ Nhân Dân, xét về thực chất là vẫn chưa
đạt được.
Để kết luận, tôi xin được
trở lại với một vấn đề của
lịch sử:
Năm 1924 từ Mátxcơva chàng trai
Nguyễn Ái Quốc, tức chủ tịch Hồ Chí Minh
sau này đă phát biểu :
“ ... Mác đă xây dựng học thuyết
của ḿnh trên mặt triết lư nhất định
của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch
sử châu Âu. Mà châu Âu là ǵ? Nó chưa phải là toàn
thể nhân loại,., xem xét lại chủ nghĩa Mác
về cơ sở lịch sử của nó, củng cố
nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là
nhiệm vụ mà các Xô Viết đảm nhiệm,…”
(Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và
Nam Kỳ 1924. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính Trị
Quốc Gia, Hà Nội - 1995, tập 1, Tr. 465 ).
Sau đó 22 năm, khi đă nghiên cứu,
học tập kỹ lưỡng học thuyết của Mác,
và như ông nói là củng cố nó bằng dân tộc
học phương Đông, ông đă có kết luận
sau :
“ ...Tất cả mọi người đều
có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi
đă nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác. Cách đây 2000
năm, Đức chúa Giêsu đă nói là ta phải yêu mến
các kẻ thù của ta. Điều đó đến bây
giờ vẫn chưa thực hiện được. C̣n
khi nào th́ chủ nghĩa Các Mác thực hiện được
th́ tôi không thể trả lời được. Muốn
cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được,
cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất
cả mọi người đều được phát
triển hết khả năng của ḿnh. Ở
nước chúng tôi, những điều ấy chưa có
đủ.”.
(trả lời các nhà báo ngày 12.7.1946 - Hồ Chí Minh toàn
tập, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội 1995, tập 4,
Tr 272.) .
Thế nhưng kết luận đúng đắn
trên của ông đă bị chính ông và các đồng chí
sau ông ngang nhiên vi phạm nặng nề trong “thực
tiễn cách mạng Việt Nam” suốt hơn nửa
thế kỷ qua. Sự vi phạm ấy vẫn c̣n kéo dài
đến tận hôm nay dứt măi chưa ra. Theo tôi, trong
lịch sử dân tộc ta chưa từng xảy ra
một điều ǵ tương tự, mà chỉ nội
trong ḥa b́nh thôi lại dẫn tới hậu quả
nhiều máu và nước mắt bằng sự kết hôn
gượng ép, sống sít giữa hai khái niệm: ḷng yêu
nước và yêu chủ nghĩa xă hội.
Đây chính là vấn đề lớn mà
mọi người Việt Nam lúc này cần phải
nhận thức lại, từ đó sẽ có một
mẫu số chung đoàn kết được muôn
triệu người Việt Nam, nhằm đấu tranh có
hiệu quả hơn với những thế lực
bảo thủ hiện đang nắm thực quyền trong
ĐCS Việt Nam. Nhất định trong một tương
lai không xa đất nước ta sẽ thoát ra khỏi t́nh
trạng nghèo nàn, tụt hậu và cực kỳ mất
tự do, dân chủ như hiện nay. Để 80 triệu người
Việt Nam ở cả trong và ngoài nước sẽ cùng
đoàn kết bên nhau, xây dựng thành công một nước
Việt Nam mới, được đa số nhân dân
chấp nhận.
Tháng
6 năm 2001
Phụ lục 1 -
Ai, Tôi?
(Chế Lan Viên)
Mậu Thân 2000 người xuống đồng
bằng
chỉ một đêm c̣n sống sót có 30
ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người
đó?
Tôi!
Tôi - người viết những câu thơ cổ vơ
ca tụng người không tiếc mạng ḿnh trong
mọi lúc xung phong
một trong 30 người khi ở mặt trận
về sau 10 năm
ngồi bán quần trên đường, nuôi đàn con
nhỏ
quán treo huân chương đầy mọi chỗ
chả huân chương nào nuôi được người
lính cũ!
ai chịu trách nhiệm vậy?
lại chính tôi!
người lính cần một câu thơ giải đáp
về đời
Tôi ú ớ!
người ấy nhắc những câu thơ tôi làm
mà tôi xấu hổ!
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
giữa buồn tủi chua cay
Tôi có thể cười?
(Chế
Lan Viên - trích tập Di Cảo - 1987) .
Phụ lục 2 -
Nh́n từ xa Tổ Quốc!
(Nguyễn Duy)
Đối
diện ngọn đèn
trang giấy trắng như xeo bằng ánh sáng
đêm bắc bán cầu vần vũ trắng
nơm nớp ai ŕnh sau lưng ta
nhủ ḿnh b́nh tâm nh́n về quê nhà
xa vắng
núi và sông
và vết rạn địa tầng
nhắm mắt lại mà nh́n
thăm thẳm
yêu và đau
quằn quại bi hùng
dù ở đâu vẫn Tổ Quốc trong ḷng
cột biên giới đóng từ thương đến
nhớ
ngọn đèn sáng trắng nóng mắt quá
ai cứ sau ḿnh lẩn quất như ma
Ai?
im lặng!
Ai?
cái bóng!
Ai?
xin chào người anh hùng bất lực dài ngoẵng
bóng máu bầm đen sóng soải nền nhà
thôi th́ ta quay lại
chuyện tṛ cùng cái bóng máu mê ta
có một thời ta mê hát đồng ca
chân thành và say đắm
Ta là ta mà ta vẫn là ta (1)
vâng - đă có một thời hùng vĩ lắm
hùng vĩ đau thương, hùng vĩ máu xương
mắt người chết trừng trừng không
chịu nhắm
vâng - một thời không thể nào phủ nhận
tất cả trôi xuôi - cấm lội ngược ḍng
thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên nhồn nhột cả tim gan
Ta đă xuyên suốt cuộc chiến tranh
nỗi day dứt khôn nguôi c̣n sạn gót chân
nhói dài mỗi bước
Ai?
không ai!
vết bầm đen đấm ngực
xứ sở nhân t́nh
sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn
đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng
Mẹ liệt sỹ gọi con đội mồ lên
đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà quan
Ai?
không ai!
vết bầm đen quều quào giơ tay
xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma
ma quái - ma cô - ma tà - ma mănh.
quỷ nhập tràng xiêu vẹo những h́nh hài
đêm huyễn hoặc
dựng tóc gáy thấy ḷng toang hoác
mắt ai xanh lè lạnh toát lửa ma chơi
Ai?
không ai!
vết bầm đen ngửa mặt lên trời
xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đ́nh chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
giấy rách mất lề
Tượng Phật khóc, Đức tin lưu lạc
thiện - ác nhập nhằng
công lư nổi lênh phênh
Ai?
không ai
vệt bầm đen tọa thiền
xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
tuổi thơ oằn vai mồ hôi, nước mắt
tuổi thơ oằn lưng xuống chiếc bơm xe
đạp
tuổi thơ bay như lá ngă tư đường
bịt mắt bắt dê (2) đâu cũng đụng
thần đồng
mở mắt. bóng nhân tài thất thểu
Ai?
không ai
vết bầm đen cúi đầu lặng thinh
xứ sở thật thà sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự - điếm chợ - điếm
vườn.
điếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
vật giá tăng
v́ hạ giá linh hồn
ai?
không ai
vết bầm đen ṿ tai
xứ sở cần cù
sao thật lắm Lăn Ông
lắm mẹo lăn công
giả vờ lĩnh lương
giả vờ làm việc
tội lỗi dửng dưng
lạnh lùng gian ác vặt
đạo chích thành tôn giáo phổ thông
ào ạt xuống đường các tập đoàn quân
buôn
buôn hàng lậu - buôn quan - buôn thánh thần buôn
tuốt
quyền lực bày ra đấu giá trước công
đường
Ai?
không ai
vết bầm đen nhún vai
xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân ĺa xứ
lắm cuộc chia ly toe toét cười
mặc kệ cỏ hoang cánh đồng gái góa
chen nhau sang nước người làm thuê
biển Thái B́nh bồng bềnh thuyền định
mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về
Ai?
không ai
vết bầm đen rứt tóc
xứ sở kỷ cương
sao thật lắm vua
vua mánh - vua lừa - vua chôm - vua chỉa
vua không ngai - vua choai choai - vua nhỏ
lănh chúa xứ quân san sát vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
luật pháp như đùa - như có - như không
một người đi chật cả con đường
Ai?
không ai
vết bầm đen gập vuông thước thợ
?.?.?.
Ai? Ai? Ai?
không ai
vết bầm đen c̣ng c̣ng dấu hỏi
thôi th́ ta trở về
c̣n trang giấy trắng tinh chưa băng hoại
c̣n chút ǵ le lói ở trong ḷng
đôi khi nổi máu lên đồng
hồn thoát xác
rũ ruột gan ra đếm
chích một giọt máu đem xét nghiệm
tư trí thức - tư thợ cầy - tư điếm
tư con buôn - tư cán bộ - tư thằng hề
Phật và Ma mỗi thứ tư ty
khốn nạn thân nhau
nặng kiếp phân thân mặt nạ
th́ lột mặt nạ đi - lần lữa măi mà chi
dù dối nữa cũng không lừa được
nữa
khôn và ngu cũng có tính mức độ
bụng dạ cồn cào bất ổn làm sao
miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít
mất vệ sinh bội thực tự hào
sự thật hôn mê - ngộ độc tự hào
bệnh và tật bao nhiêu năm ủ lại
biết thế nhưng mà biết làm thế nào
chả lẽ bây giờ bắc thang chửi bới
thấy chửi bới nhẹ gian nanh cơ hội
chả lẽ bốc thang cỏ khô nhai lại
lạy ông cơ chế, lạy bà tư duy
xin đừng hót những điều chim chóc măi
đừng lớn lời khi dân lành ốm đói
vẫn c̣ng làm cho thẳng lưng ăn
đổi mới thật hay giả vờ đổi
mới?
máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng?
thật đáng sợ ai không có ai thương
càng đáng sợ không c̣n ai ghét
ngày càng hiếm hoi câu thơ tuẫn tiết
Ta là ǵ?
ta cần thiết cho ai?
có thể ta không tin ai đó
dù có sao vẫn tin ở con người
dù có sao đừng khoanh tay
khủng khiếp thay ngoảnh mặt bó gối
cái tốt nhiều hơn sao cái xấu mạnh hơn?
những người tốt đang cần liên hiệp
lại
dù có sao
vẫn Tổ Quốc trong ḷng
mạch tâm linh trong sạch vô ngần
c̣n thơ c̣n dân
Ta là dân : vậy th́ ta tồn tại
giọt từng giọt
nặng nhọc
nặng nhọc thay
dù có sao
đừng thở dài
c̣n da lông mọc c̣n chồi nảy cây (3)
(
Nguyễn Duy - Nh́n Từ Xa Tổ Quốc! - Mátxcơva
tháng 5/1988,
TP.HCM 19/8/1988 - tạp chí Sông Hương số 37 - tháng
4,5.1989)
-------------------
(1) một câu thơ của Chế Lan Viên
hồi chiến tranh.
(2)
một tṛ chơi trốn t́m của trẻ em.
(3)
một câu ca dao xưa.
Mạng
Lưới Nhân Quyền Việt Nam
[Trang
nhà] [Về MLNQ]
[Luật Nhân Quyềnn]
[Tài liệu] [Tin
nhân quyền] [Diễn
đàn] [Tham gia]
[Tải xuống] [Liên
kết]