Nhân Quyền ở Việt Nam, giữa Luật Quốc Tế và Luật Quốc Nội

 

 

Bài phát biểu của Luật sư Trần Thanh Hiệp nhân dịp Đại Hội kỳ VIII của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam từ 07 đến 08-12-2007 tại Santa Ana, Nam Calikỷ niệm 10 năm thanh lập MLNQVN và trao giải Nhân Quyền 2007 cho Giáo sư Hoàng Minh Chính và hai Luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân.

 

 

 

Kính thưa qúy cụ,

Thưa qúy bà

Thưa qúy ông,

Thưa các ban,

 

Cuối năm 1945, tôi còn là một thanh niên 18 tuổi. Chống độc tài và cổ vũ cho dân chủ, tôi và mấy người bạn chia nhau đi rải truyền đơn trên đường phố ở Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Người của nhà cầm quyền lúc đó vây bắt tôi, bịt mắt, nhét dẻ vào miệng tôi, đưa tôi về Ty Liêm Phóng, đánh đập tra khảo và sau cùng, giam tôi vào khu biệt giam của ty này. Lần đầu tiên trong đời, tôi bỗng là một người tù, hai chân ngày đêm bị cùm. Những buổi sang được ra ngoài đi làm vệ sinh, tôi đã khám phá ra rằng người tù hàng xóm của tôi, trước khi vào đây, là một ông quan đầu tỉnh, tuần phủ Cung Đình Vận, rất nổi tiếng võ nghệ cao cường và ưa thích thể thao. Tôi băn khoăn tự hỏi tôi đã phạm tội gì, số phận của mình sẽ ra sao, tôi sẽ chịu hình phạt nào, bao giờ thì được trở lại cuộc sống bình thường? Và trong cái mù mịt của tương lai, tôi đã chỉ cảm thấy được nỗi cô đơn của một người dân nhỏ bé, yếu đuối, đang phải đối đầu một cách bất cân xứng với sức mạnh của một quyền lực cai trị không giới hạn. Rồi đây ai sẽ là người bảo vệ quyền sống cho tối? Tôi thấy dường như không có câu trả lời. Không ngờ chừng một tháng sau, một câu giải đáp không chờ đợi đã tới với tôi: tôi được một toán đặc công của một đảng cách mạng phe quốc gia đột nhập nhà giam giải thoát.

 

Đêm nay, 62 năm sau, may mắn hơn tuần phủ Cung Đình Vận đã bị thủ tiêu và hàng triệu người tù khác còn đang bị đầy đoạ trong các nhà tù ở trong nươc, một trong những nguời sống sót của nhà tù cộng sản lại có vinh hạnh được xuất hiện trên một diễn đàn của thế giới văn minh và trước qúy vị, một cử tọa chọn lọc, để phát biểu về nhân quyền, tự do và nhân phẩm.

 

Thưa qúy vị,

 

Tôi xin được dành những giây phút đầu tiên của vinh hạnh này để tỏ bày ở đây lòng tri ân của tôi đối với những chiến sĩ tự do dân chủ Việt Nam, nổi danh cũng như vô danh, trải qua hơn nửa thế kỷ, đã tận hiến tài trí, của cải, hanh phúc, thậm chí cả tính mạng của mình, cho những nhân quyền, tự do và nhân phẩm ấy. Tôi xin đặc biệt cảm ơn Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam đã cho tôi cơ hội để tôi được góp một phần rất nhỏ vào công trình tranh đấu tập thể cao cả đang được tiến hành này. Đêm nay, tôi đến trước qúy vị không phải vì muốn tìm những ánh hào quang của một diễn giả hùng biện mà là để nói lên được tiếng nói của những người bất hạnh trong cõi đời này. Tôi muốn nói, để tiếp vận tới qúy vị lời kêu cứu của dân oan dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở trong nước. Nhưng đồng thời cũng còn để nói lên tiếng nói của một dân oan, của chế độ ấy, đã chờ đợi suốt gần hết cả cuộc đời mình mà nỗi oan tài sản bị chiếm đoạt, nhân quyền bị dày xéo, danh dự bị chà đạp vẫn không được công lý xét xử. Tôi là một dân oan và tôi có những lý lẽ vững chắc để khẳng định rằng ngoại trừ một tuyệt thiểu số đảng viên và tay sai của Đảng Cộng sản, cả hơn 80 triệu ngườiViệt Nam đều là dân oan không được khiếu kiện hay có khiếu kiện mà không được xử kiện. Đó là hiện tượng mà tôi cho là thảm kịch nhân quyền ở Việt Nam.

 

Lùi lại hàng ngàn năm trước đây, cái không khí dân oan đi tìm công lý trong tuyệt vọng dưới chế độ quân chủ chuyên chế của Trung Quốc, đã được ghi khắc và thu nhỏ lại trong thành ngữ “Thiên cao hoàng đế viễn”. Trời thì cao, vua thì xa, khi có oan ức biết tìm đâu ra nơi phân xử phải trái? Quân chủ ở  Việt Nam chưa bao giờ đạt tới mức chuyên chế như ở Trung Quốc nên hiện tượng dân oan ở Việt Nam không đến nỗi khốc liệt như ở nước láng giềng phương Bắc. Vua quan Việt Nam kiểm sát rất nghiêm ngặt việc xử án, người dân Việt Nam lại có những quyền công khai lên tiếng kêu oan mà không bị bịt miệng. Trái lại dưới chế độ xã hội chủ nghĩa hiện nay, nhà cầm quyền cộng sản ngang nhiên miệt thị nhân quyền kể cả ở trước tòa án. Và còn lạnh lùng lấy xâm phạm nhân quyền làm nền tảng cho chính sách cai trị. Những cuộc biểu tình ở cả trong Nam lẫn ngoài Bắc của đủ mọi tầng lớp dân oan, đứng dậy đòi công lý, đã có ý nghĩa pháp lý rằng đó lá những tội chứng minh trưng tội ác vi phạm nhân quyền hàng loạt, có hệ thống và thường trực mà luật quốc tế vế nhân quyền đã minh thị nghiêm cấm.

 

Qúy vị đã đọc những trang sử hiện đại ghi chép chiến công của những chiến sĩ dân chủ, từ hơn ba thập niên qua, đã không ngần ngại hy sinh tính mạng để chấm dứt loại quốc nạn vi phạm nhân quyền này. Qúy vị đang chứng kiến những thủ đoạn thiếu văn minh mà độc tài đảng trị Hà Nội vận dụng để đàn áp những người Việt ở hải ngoại chỉ muốn ôn hòa mang về trong nước ánh sáng của văn minh dân chủ. Qúy vị, trong dây lát, sẽ được nghe tuyên dương công trạng của ba chiến sĩ dân chủ của thời đại mới, biểu tượng của hai thế hệ già và trẻ, hiên ngang trực diện với độc tài để bảo vệ và tiến thăng nhân quyền ngay trong lòng chế độ chế độ đảng trị. Rõ ràng là lực lượng dân chủ đã thực sự ra đời ở trong nước và trong vai trò phản công đi tiên phong mở đường, đang phải chịu đựng cuộc tấn công vô lương tâm, vô văn hóa của toàn trị tàn dư.

 

Còn cần phải có thêm bao nhiêu hy sinh nữa thì tập đoàn cai trị cộng sản mới chịu chấp nhận việc dân chủ hóa thực sự vùng đất họ cai trị? Tuy tin chắc rằng lực lượng dân chủ sẵn sàng trả bất cứ giá nào để chuyển hóa độc tài, và, sớm muộn gì thì người Việt Nam cũng sẽ thấy dân chủ được xây dựng trên đất nước mình. Nhưng tôi vẫn cho rằng sự đổi thay lịch sử này đến sớm ngày nào hay ngày đó. Cái giá rẻ nhất phải trả cho sự thay đổi ấy chỉ là việc nhà cầm quyền Hà Nội chịu thi hành nghiêm chỉnh những nghĩa vụ quốc tế của mình trên địa hạt nhân quyền.

 

Hà Nội có hai loại nghĩa vụ quốc tế là nghĩa vụ chính trị và nghĩa vụ pháp lý. Sự kiên Việt Nam xã hội chủ nghĩa vừa được chấp nhận làm thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An đã chấm dứt quá trình hội nhập cộng đồng thế giới của tập doàn cai trị Hà Nội. Với sự gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1977, sự tham gia hai Công ước quốc tế vế Nhân quyền năm 1982 và sự đắc cử vào Hội Đồng Bảo An năm 2007, Việt Nam xã hội chủ nghĩa không nên, và thật ra cũng không thể, tìm cách thoái thác việc thi hành nghĩa vụ quốc tế của mình trên địa hạt nhân quyền nữa.

 

Một đằng là những nghĩa vụ chính trị về mặt nhân quyền. Đã là một quốc gia thành viên LHQ thì không thể không chia sẻ mối quan tâm đặc biệt của LHQ về nhân quyền. Trong bản Hiến chương Cựu Kim Sơn, LHQ đã hơn một lần biểu lộ lòng tin tuởng vào những quyền cơ bản, vào giá trị bẩm sinh của con người, coi đó là nền móng của tự do, công lý và hòa bình thế giới, như đã được thông diễn trong bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948. Công Ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1962, sau khi đã nhắc lại lòng tin tưởng ấy của LHQ, đã đòi hỏi các quốc gia hội viên phải phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và quyền tự do của con người. Tư cách một thành viên không thường trực của HĐBA buôc rằng thành viên này phải góp sức bảo vệ hòa bình trên toàn thế giới. Và bởi vì nhân quyền là nền móng của nền hòa bình này nên thành viên ấy hơn những quốc gia không thành viên, phải tỏ ra biết đáp ứng đúng tiêu chuẩn của LHQ về nhân quyền. Đằng khác, đi đôi với những nghĩa vụ chính trị còn có những nghĩa vụ pháp lý quốc tế về mặt nhân quyền. Khi trở thành thành viên bằng ký kết hay bằng tham gia Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, quốc gia nào cũng cam kết, như đã dự liệu nơi điều 2 của bản văn quốc tế này, rằng trong trường hợp những quyền được nhìn nhận trong Công Ước chưa được quy định thánh văn trong luật pháp quốc nội thì phải trù liệu việc ban hành theo thủ tục lập pháp quốc gia và theo các điều khoản của Công Ưóc để các quyền này có hiệu lực. Ngoài ra, cũng vẫn theo điều 2 này, trong số những bảo đảm đòi hỏi mỗi quốc gia thành viên phải cung cấp, có sự bảo đảm cho các nạn nhân nhân quyền được khiếu nại tại các cơ quan tư pháp, hành chánh hay lập pháp quốc gia hay tại các cơ quan có thẩm quyền để việc khiếu tố trước tòa án được tôn trọng và được hành sử. Nói cách khác, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ hội nhập vào luật quốc nội những quy phạm của luật quốc tế về nhân quyền. Tóm lại thi hành nghiêm chỉnh và đúng đắn những cam kết quốc tế về nhân quyền không còn là một sự tự do lựa chọn dưới lý do này hay lý do khác mà là một nghĩa vụ có tính cưỡng hành, không theo không được, để tránh những triển khai của bạo lực chà đạp nhân quyền đe dọa hòa bình trong xã hội.

 

Nhưng nói cam kết là còn phải nói thi hành. Từ thượng cổ, để rời bỏ dã man bước vào văn minh, loài người đã thi hành những cam kết của mình theo văn tự, cũng như theo tinh thần, của nguyên tắc Pacta sunt servanda, nghĩa là việc ký kết có hiệu lực ràng buộc không thể lẩn tránh để cho những điều kết ước được thực hiện trong thực tế. Từ đó người ta suy luận ra rằng cam kết mà không thi hành là sử sự trái ngược lại với văn minh.

 

Hà Nội đã thi hành những cam kết của mình về nhân quyền như thế nào?

 

Một sự thật hiển nhiên mà những luận điệu tuyên truyền gian dối không che giấu được, những tế nhị về ngoại giao không chế hóa được, đó là Hà Nội chẳng những không thi hành mà còn tri tình vi phạm những cam kết quốc tế về nhân quyền của mình. Vi phạm bằng nhiều cách trong đó có hai cách chinh, không áp dụng những gì đã ký kết và sáng chế ra những quy phạm trắng trợn đi ngược hẳn lại các điều đã cam kết. Chỉ cần lấy một thí du thôi cũng đủ để minh chứng điều này. Hà Nội từ 25 năm nay đã lần lữa không chịu áp dụng điều 2 của CUQTQDSCT buộc Hà Nội phải hội nhập vào luật quốc nội những quy phạm của Công ước này. Đã vậy, Hà Nội nơi điều 50 của Hiến pháp 1992 lại đặt ra một quy phạm riêng của mình [Ở nước CHXHCNVN, các quyền con người (…)được quy định trong Hiến pháp và luật”] thay đổi hẳn quy phạm quốc tê với dụng đich xóa bỏ hết nhửng nhân quyền bẩm sinh của người dân và tự cho mình quyền ban phát nhân quyền rồi dung bạo lực ép buộc dân phải nhận chịu một loại hình nhân quyền mới, nhân-quyền-phi- nhân-quyền do chính Hà Nội đặt ra. Hậu quả tất yếu của hành động tự phong này là có thể nói rằng Hà Nội đã tự cho mình quyền thay Thượng đế để quyết định về số phận của con người sống dưới quyền cai trị của Hà Nội. Phong cách cầm quyền thoái hóa này chính là đầu mối của tình trạng nhân quyền tồi tệ hiện nay ở Việt Nam mà những cuộc bắt bớ, hành hung đối lập ôn hòa, những vụ án tiền chế bỏ túi tuồng kịch, và nhất là làn sóng dân oan khiếu kiện trên cả nước là những vẻ mặt thảm hại và xấu xa đáng hổ thẹn.

 

Đòi hỏi việc thay đổi phong cách cầm quyền thoái hóa này là tuyên cáo tiếng nói của lương tâm con người, của lương tâm loài người. Những người Việt ở hải ngoại sau 32 năm tị nạn cộng sản nay đã họp thành một bộ phận tiên tiến và ngoại lãnh thổ. Những người Việt ở trong nước là bộ phận quốc nội thường hằng đang tiếp nối dòng sống tuy thăng trầm gần năm ngàn năm nhưng vẫn tồn tại. Hai bộ phận này không phải là hai lực lượng thù địch nhau mà là hai nguồn sống hữu cơ của một đại khối mà lịch sử đã và đang nối kết trong một ý chí chung và tình liên đới chiến đấu cho sự sống còn của dân tộc. Không thể tố cáo bừa bãi rằng đó là một sự biểu hiện phản động. Vì thực thể mới này đang thi hành nhiêm vụ lịch sử phục hưng dân tộc phát triển bền vững đất nước trong không gian Việt mở rộng để nước Việt Nam, người Việt Nam hội nhập vào nhân loại văn minh.  

 

Thưa qúy vị,

 

Đêm nay, Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam đã làm được một việc có ý nghĩa chiếu rọi ánh sáng vào số phận hẩm hiu, đen tối của tuyệt đại đa số người dân ở Việt Nam mà mọi nhân quyền đều bị tước đoạt, mọi dân quyền đã bị sang đoạt. Dư luận cả thế giới đã thấu hiểu điều này. Dự luật nhân quyền HR3096 vừa được Hạ viện Mỹ biểu quyết với một đa số áp đảo sẽ là một sự hỗ trợ qúy báu cho việc cải thiện nhân quyền ở Việt Nam nếu nó được Thượng Viện thông qua để trở thành một đạo luật. Tôi xin được nhấn mạnh thêm một lần nữa rằng, nhân quyền ở Việt Nam không phải chỉ là một mối quan tâm phiến diện bề mặt, một phản ứng của những tâm hồn đa cảm dễ xúc động trước những cảnh thương tâm hay là một mặt hàng để trao đổi trong cuộc giao lưu thương mại. Đối với trên 80 triệu người dân Việt Nam ỏ trong nước, đang âm thần rên xiết dưới bộ máy kìm kẹp của độc tài đảng trị với ý đồ toàn trị phản tiến hóa, nhân quyền là một cuộc thử thách thư hùng với phi-nhân-quyền. Tập đoàn cai trị ở Hà Nội phải trả lại cho người dân quyền được sống theo tiêu chuẩn của văn minh của thiên niên kỷ thứ ba, kỷ nguyên của dân chủ trên quy mô toàn cầu. Không thể có nhân quyền nếu không có dân chủ. Dân chủ chân chính, dân chủ chính thống dựa trên chính thống dân chủ chứ không phải dân chủ giả mạo xuất phát từ chính thống đảng chủ. Lời mở đầu của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, cách đây 60 năm đã cảnh báo nhân loại rằng “điều cốt yếu là nhân quyền phải được một chế độ pháp trị bảo vệ, để con người khỏi bị dồn vào thế cùng, phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền”. Tôi hy vọng rằng vào dịp mà nhân loại nhớ lại sự ra đời của bản văn lịch sử này, nhà cầm quyền Hà Nội sẽ lâm thức được rằng đã đến lúc phải chấm dứt mọi thủ đọan đưa đẩy không ngay tình giữa luật quốc tế và luật quốc nội để biết và dám thực sự tôn trọng và thực hiện nhân quyền chân chính thông qua việc thi hành nghiêm chỉnh những nghĩa vụ quốc tế của mình về nhân quyền. Tôi tin rằng đó cũng là điều qúy vị chờ đợi ở phía Hà Nội.

 

Xin cảm ơn qúy vị.  

 

 

 

Trở lại trang chính


Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

[Trang nhà] [Về MLNQ] [Luật Nhân Quyềnn] [Tài liệu] [Tin nhân quyền] [Diễn đàn] [Tham gia] [Tải xuống] [Liên kết]