Tại sao có quá ít người dám tranh đấu?


Nguyễn Chính Kết



Trong chế độ Cộng sản, chẳng có dân chủ cũng chẳng có tự do, người dân bị áp bức đủ điều. Ai cũng biết điều ấy. Mà Việt Nam, trong 4000 năm lịch sử, nổi tiếng là một dân tộc bất khuất: tuy nhỏ bé, bị Trung Hoa xâm lược, đô hộ, tìm cách đồng hóa cả ngàn năm, bị Pháp cai trị cả trăm năm, nhưng Việt Nam vẫn bảo tồn được nòi giống, văn hóa cá biệt của mình. Vì thế, nhiều người nghĩ rằng, trong hoàn cảnh bị Cộng sản áp bức hiện nay, ắt hẳn phải có rất nhiều người đứng lên tranh đấu chống lại cơ chế áp bức ấy. – Theo lý luận tự nhiên, kết luận như vậy thật hết sức lôgích! Nhưng trong thực tế, số người tranh đấu chống lại áp bức quả hết sức ít ỏi. Tại sao? Đó là một thắc mắc chính đáng mà không ít người chỉ nêu lên, nhưng chưa có câu trả lời tương đối đầy đủ, tạm thỏa mãn.

Thật vậy, gần 50 năm kể từ 1954 đến nay ở miền Bắc, và suốt 30 năm kể từ 1975 đến nay tại miền Nam, dù sống dưới ách chuyên chế vô cùng khắc nghiệt của Cộng sản, số người trong nước dám lên tiếng tranh đấu cho tự do dân chủ quả quá ít so với 80 triệu dân đang sống trên mảnh đất chữ S này. Phản ứng của người dân trước cuộc đấu tranh quyết liệt cho tự do tôn giáo do linh mục Nguyễn Văn Lý khởi xướng là một trắc nghiệm thật hùng hồn về tình trạng «không dám» ấy của đại đa số người dân trong nước.

Phải nói rằng từ khi Việt Nam có chế độ Cộng sản đến nay, chưa có ai dám lên tiếng cách mạnh mẽ và được cả một cộng đồng Việt Nam hải ngoại – khoảng 3 triệu người – ủng hộ hết mình và «rầm rộ» như linh mục Nguyễn Văn Lý. Đây quả là một cơ hội vô cùng hiếm có để người dân trong nước có thể ủng hộ cuộc đấu tranh cho quyền tự do và quyền làm chủ đất nước của mình hầu tạo nên một áp lực mạnh mẽ và hữu hiệu buộc chế độ Cộng sản phải thay đổi chính sách, đặc biệt chính sách đối với các tôn giáo. Thế nhưng số giám mục, linh mục hoặc tín hữu trong nước dám công khai lên tiếng ủng hộ cuộc tranh đấu ấy để bênh vực một quyền lợi hết sức chính đáng của mình chỉ đếm được trên đầu ngón tay. So với 6 triệu người Công giáo, con số ấy quả ít ỏi đến mức đáng ngạc nhiên ([1]).

Số người tranh đấu cho tự do tôn giáo ở trong nước chỉ được khoảng 20 người ([2]). Cứ cho người có tôn giáo chiếm khoảng 2/3 dân Việt thì số tín đồ phải là 50 triệu. 20 người so với 50 triệu tín đồ quả là quá ít ([3]). Số người lên tiếng tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền ở trong nước mà quốc tế biết đến trong 30 năm qua, kể từ 1975, chưa đầy 50 người ([4]). So với 80 triệu dân, thì con số trên quá nhỏ nhoi: phải hơn một triệu người mới có được một người dám công khai lên tiếng ([5]), dù chỉ là lên tiếng một cách ôn hòa, hợp pháp chứ chưa nói tới chuyện làm gì hơn thế nữa.

Đó là một thực tế rõ rệt mà ai – nếu được hoàn toàn tự do phán đoán theo lương tri – cũng đều công nhận. Như vậy, phải chăng dân Việt ngày nay không còn dũng khí, không còn anh hùng như cha ông ta ngày xưa nữa? Thời Pháp thuộc cách đây chưa đầy 100 năm, dân chúng đâu đến nỗi bị cai trị cách hà khắc và độc đoán như trong chế độ Cộng sản, thế mà có biết bao người dám đứng lên mộ quân, khởi nghĩa, chứ không chỉ lên tiếng phản đối hay đấu tranh cách ôn hòa. Chẳng lẽ dân Việt ngày nay – thời đại internet, là thời mà người dân có thể cứ ngồi trước máy vi tính ngay trong nhà mình cũng có thể lên tiếng tranh đấu – không còn có những con người anh hùng, đầy dũng khí như Đề Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, v.v… nữa sao?

Là một người ở trong nước có phần nào góp phần vào việc tranh đấu cho tự do tôn giáo, tôi hiểu được và rất thông cảm với sự im lặng của hầu hết người dân trong nước nói chung, và các nhà trí thức trong nước nói riêng. Quả thực, ngày nay, người dân trong nước muốn lên tiếng thì phải đắn đo hơn xưa rất nhiều. Người Cộng sản có thể dở hay hèn kém về nhiều mặt, nhưng phải công nhận họ rất khôn ngoan và vô cùng hữu hiệu trong việc ngăn cấm người dân tranh đấu, nhất là cản trở người dân liên kết lại với nhau để chống lại họ. Mọi mầm mống hay âm mưu chống lại họ đều khó có thể hình thành, và nếu hình thành được thì rất dễ dàng bị đập vỡ ngay từ trong trứng nước. Họ làm được điều này hữu hiệu hơn tất cả những chế độ quân chủ hay dân chủ trước đó, không phải vì họ tài giỏi hơn cho bằng họ vô đạo đức hơn, quỷ quyệt hơn, độc ác hơn. Chủ trương vô thần của họ phần nào là nguyên nhân của tính vô đạo đức này ([6]).

Sau 1975, nhất là từ khi Việt Nam cần bang giao với các nước, việc bắt bỏ tù và âm thầm thủ tiêu những người tranh đấu không còn thực hiện được dễ dàng như trước, vì họ bị đòi hỏi phải làm theo luật pháp, của chính họ cũng như của quốc tế. Vì thế, để làm cho các tiếng nói tranh đấu trong nước phải im tiếng, chính quyền đã sử dụng những biện pháp mềm dẻo hơn, ít mang tiếng hơn, nhưng không phải là kém phần hữu hiệu. Sau đây là một số phương pháp họ đã dùng với mục đích trên.


1) Bao vây kinh tế, sách nhiễu, đe dọa
Điều đáng sợ khiến nhiều người dù uất ức, muốn phản kháng tới đâu cũng phải im lặng, đó là sự bao vây kinh tế của nhà nước đối với những người tranh đấu. Để tranh đấu cho quê hương đất nước, những người yêu nước có thể chấp nhận bị phiền nhiễu, phải vào tù, bị tra tấn, thậm chí chết, mặc dù họ cũng như mọi người, rất sợ những thứ ấy. Thắng được nỗi sợ ấy là việc mà một số người – tuy không nhiều, nhưng không đến nỗi quá ít – có thể làm được. Tuy nhiên có một điều thật đáng sợ, làm người ta ngần ngại hơn nhiều, đó là sợ làm liên lụy đến người khác. Thật vậy, người ta không sợ chết, sợ tù cho bằng sợ việc tranh đấu của mình làm cho nhiều người bị liên lụy, khổ sở: trong đó có vợ con, cha mẹ, anh em, bạn bè, hay cộng đoàn mà mình đang có trách nhiệm.


Xin đan cử trường hợp mới đây nhất là trường hợp của anh Phương Nam Đỗ Nam Hải. Khi còn du học ở Úc, anh đã viết 5 bài nhận định, phân tích, phê bình về chính sách cai trị của đảng Cộng sản hiện nay tại Việt Nam, đồng thời đề nghị hay vạch ra một phương hướng tốt đẹp hơn cho đất nước. Khi về nước đầu năm 2002, anh bắt đầu phổ biến rộng rãi những bài viết của anh trên Internet. Đến tháng 8-2004, anh bắt đầu bị công an mời đi làm việc hàng chục lần tại nhiều nơi khác nhau, có những lần bị giữ lại hơn hai ngày. Và đầu tháng 2-2005, anh đã bị mất việc anh đang làm để sinh sống tại ngân hàng. Tôi có dịp tiếp xúc với anh Hải nhiều lần, anh cho biết: Khi sách nhiễu nhiều lần và đủ kiểu như thế, điều chính quyền nhắm không phải là làm lung lạc tinh thần anh, vì họ biết họ làm không nổi, mà nhắm làm lung lạc tinh thần gia đình anh. Họ hy vọng những người trong gia đình anh – vốn không vững tinh thần như anh – bị căng thẳng và chịu không nổi những sách nhiễu ấy, sẽ tác động đến anh khiến anh phải im tiếng.

Tôi cũng xin kể trường hợp của tôi. Khi bắt đầu lên tiếng cho tự do tôn giáo vào đầu năm 2001, tôi đang làm trưởng một hội đoàn ở Việt Nam, hội Kolping ([7]). Vì sợ hội đoàn của tôi bị liên lụy, nên khi vừa bắt đầu lên tiếng, tôi đã tự nguyện từ chức hội trưởng. Ấy thế mà nhiều cộng đoàn nhỏ bé của tôi đã bị khó dễ, nghi ngờ. Một số hội viên bị mất việc làm chỉ vì là hội viên Kolping. Chẳng hạn một hiệu trưởng trường cấp ba ở An Giang bị giáng chức xuống làm giáo viên thường, một nhân viên của trường ấy bị đuổi việc. Đương nhiên khi giáng chức hay đuổi việc những người này, chính quyền luôn luôn dựa vào một lý do khác, nếu không có thật thì cũng ngụy tạo ra, để có cớ mà đuổi. Một số cộng đoàn Kolping ở tỉnh này tỉnh nọ phải làm việc với công an và bị theo dõi vì bị nghi ngờ…

Riêng tôi thì bị bao vây kinh tế và bị sách nhiễu nhiều lần. Tôi sống và nuôi gia đình được là nhờ dạy học và dịch sách. Lúc đó tôi đang dạy triết học cho 5,6 nhà dòng ở Sàigòn và dịch các sách về tôn giáo (thần học, tu đức). Sau khi lên tiếng cho tự do tôn giáo thì tất cả các nhà dòng tôi đang dạy đều không còn dám nhờ tôi dạy nữa, mặc dù ở một vài nhà dòng có những môn tôi đang dạy chưa xong. Tôi thắc mắc: không hiểu công an có ra lệnh gì cho các nhà dòng đó không?! Khi công an quận hỏi tôi: có phải anh nhận dịch sách ở tòa Tổng Giám Mục không? Tôi nhận đại cho khỏi lôi thôi. Thế là khoảng 3 tháng sau, anh công an tôn giáo quận đến hỏi tôi: «Anh đâu có nhận dịch ở tòa Tổng Giám Mục, vậy anh nhận dịch ở đâu?» Lúc đó tôi đang dịch một cuốn sách do một người bạn ở Pháp nhờ dịch, nên tôi trả lời thẳng: «Tôi nhận dịch từ ngoại quốc!» Điều đó cho thấy công an đã đến tòa Tổng Giám mục hỏi về việc cung cấp bài dịch cho tôi để tôi có việc làm, chắc chắn chỉ với mục đích bao vây kinh tế hầu tôi không còn cách nào để sống. Có lẽ chính quyền nghĩ rằng nếu không còn cách nào để sống, gia đình bị thiếu thốn, đói khổ, con cái không đủ tiền để đi học… thì những người tranh đấu làm sao có thể tiếp tục lên tiếng được?

Một trí thức nọ rất thân với tôi cũng bức xúc về sự im lặng của mình. Anh rất muốn lên tiếng, nhưng không dám. Anh tâm sự: «Nếu tôi lên tiếng, thì trước hết tôi mất việc làm đã đành, mà mấy con của tôi cũng có thể bị mất việc. Lúc đó làm sao tôi có đủ tiền để nuôi bản thân, nuôi vợ và những đứa con còn nhỏ của tôi? Và những đứa đã có gia đình mà bị mất việc thì tôi làm sao có đủ tiền để nuôi cả mấy gia đình chúng nó nữa?» Nếu cứ nghĩ thế thì chắc chắn chẳng ai dám lên tiếng tranh đấu. Vì vấn đề không phải chỉ là đau khổ cho riêng bản thân mình, mà còn liên lụy tới bao người thân yêu của mình nữa. Trường hợp của tôi rất may là một vài người bạn đã tìm cách giúp tôi có những tài liệu về kinh tế để dịch thường xuyên với giá rất cao nên tôi và gia đình vẫn tạm sống qua ngày được, nhờ đó tôi mới có thể tiếp tục lên tiếng. Nếu không nhờ sự giúp đỡ ấy, chắc chắn tôi đã phải «tịt ngòi» từ lâu! Làm sao tôi có đầu óc để viết những bài tranh đấu khi nhìn vợ con mình đói, nheo nhóc, đau khổ? Làm sao tôi có thì giờ để viết bài tranh đấu khi tôi, vì bị mất việc làm, phải dành hết tâm lực và thì giờ để tìm cách nuôi sống gia đình mình trước đã?

Nói tới đây tôi mới thấy chính sách quản lý thật kỹ dạ dày và các nhu cầu thiết yếu nhất của người dân là một chính sách tuy dã man, nhưng rất hiệu nghiệm để dẹp tan tất cả những mầm mống nổi loạn ở trong nước vào những năm đầu tiên sau 1975, hầu ép người dân phải chấp nhận chế độ Cộng sản. Nhà nước quản lý dạ dày và các nhu cầu thiết yếu nhất của người dân bằng hộ khẩu, bằng việc cấp phát các nhu yếu phẩm theo tiêu chuẩn đầu người trong hộ khẩu. Mọi chuyện cho phép hay cấp phát của chính quyền đối với dân chúng đều căn cứ trên hộ khẩu: xin phép chính quyền bất cứ điều gì đều phải trình thẻ chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu. Chính quyền cấp dưới khi đề nghị lên cấp trên giải quyết điều gì cho ai đều phải chứng nhận đương sự có thường trú, tức có hộ khẩu tại địa phương. Không có hộ khẩu thì hầu như tiên thiên không được giải quyết. Vì thế, người dân hoàn toàn bị lệ thuộc mọi mặt vào tờ hộ khẩu của mình.

Sống ở Việt Nam hai thập niên đầu sau 1975 mà không có hộ khẩu thì vô cùng vất vả! Chỉ người dân nào có hộ khẩu mới được mua các nhu yếu phẩm cần thiết cho sự sống bằng giá đặc biệt, phù hợp với mức lương vô cùng thấp của người dân lúc ấy. Có hộ khẩu mới có thể cư ngụ tại địa phương một cách hợp pháp, không bị khó dễ, mới có thể xin việc làm, xin đi học, xin đăng ký hôn nhân, xin di chuyển, xin xây cửa sửa nhà, v.v… Không có hộ khẩu thì dù có ở ngay trong chính ngôi nhà mà mình đã từng ở cách hợp pháp mấy chục năm và dù mình không hề phạm một tội gì, thì cũng là cư trú bất hợp pháp. Cư trú bất hợp pháp thì chẳng hưởng được một quyền lợi nào cả, có muốn tìm việc làm chính thức thì cũng chẳng ai dám nhận. Vì thế, có những người phải chạy chọt để được nhập hộ khẩu với giá cả một cây vàng. Một cây vàng những năm sau 1975 là một giá trị rất lớn: lương của rất nhiều người dân làm việc suốt cả năm cộng lại không được một cây vàng! ([8])

Chính sách hộ khẩu nghiệt ngã đến nỗi, nếu không có hộ khẩu, người dân không thể thực hiện các quyền căn bản của mình như: cư trú, làm việc, kết hôn, sở hữu hay mua bán tài sản, v.v… nói chung là mọi thứ cần thiết của cuộc sống. Không có hộ khẩu thì chẳng khác một tội nhân sống ngoài vòng pháp luật, không làm được gì cả. Do đó người dân mà hó hé biểu hiện một chút gì «phản động» thì không thể sống nổi tại địa phương của mình đã đành, mà đi đâu cũng không sống nổi, vì không có hộ khẩu làm sao kiếm được việc làm mà sống? làm sao mua được gạo và các nhu yếu phẩm khác mà ăn, mà dùng? Và ai dám chứa người bất hợp pháp trong nhà mình?


Nếu có ai «phản động», chống lại nhà nước, thì người thân của người ấy phải có trách nhiệm «giáo dục» người ấy, nếu không thì cả người thân ấy cũng sẽ phải chịu một biện pháp chế tài nào đấy! Một bằng chứng cụ thể mới đây là trường hợp ông Huỳnh Hữu Nghĩa, hiệu trưởng một trường tiểu học ở Bạc Liêu, là em ruột của Thượng tọa Thích Thiện Minh ([9]), một người tranh đấu cho tự do tôn giáo. Ông em của thượng tọa đã nhận được nhiều cú điện thoại hăm dọa sẽ bị đuổi khỏi trường hoặc bị tai nạn xe cộ nếu không khuyên nhủ anh mình chấm dứt việc lên tiếng cho tự do tôn giáo và nhân quyền ([10]). Trường hợp này, nếu ông Nghĩa đang chủ yếu sống bằng lương của hiệu trưởng và phải nuôi vợ con chỉ bằng số lương ấy, thì thượng tọa quả là khó xử. Ông Nghĩa có thể chấp nhận bị mất việc vì lý tưởng của anh mình, nhưng còn vợ con ông thì sao? Vợ con ông có chấp nhận cho ông hy sinh sự bình an và no ấm của cả gia đình cho lý tưởng cao cả của người anh ông không? Đối với thượng tọa, nếu vì những hành động yêu nước, yêu tôn giáo của mình mà em mình có thể bị tai nạn, cả gia đình em mình bị thiếu thốn, khốn khổ, thì liệu ông có đủ nhẫn tâm đối với gia đình em mình để tiếp tục những hành động yêu nước ấy không? Thượng tọa có yêu nước, yêu đạo pháp, có dũng cảm đến đâu, gặp trường hợp này thì đành phải chịu thua thôi! Và quả thực, thượng tọa đã phải im tiếng luôn từ lúc ấy đến nay! Phương pháp này quả là hữu hiệu!


2) Đổi chác
Để đạt được sự im lặng hay cộng tác từ một nhân vật nào đó trong Giáo Hội, việc đổi chác quyền lợi cũng là một kế rất hay. Tôi nhượng cho anh cái này, thì đổi lại anh phải nhượng cho tôi cái kia. Tôi cho anh cái này, anh phải cho tôi cái kia. Gặp trường hợp này, một nhà đạo đức nhất vẫn có thể phải chấp nhận sự trao đổi, không phải chỉ để khỏi bị hại hay được lợi cho cá nhân mình, mà còn để cho cả tập thể của mình khỏi bị hại hay được lợi. Chẳng hạn một chủng sinh chỉ cần chấp nhận cho biết một số tin tức nào đó trong Giáo Hội mà một cách chủ quan anh ta cho là vô hại đối với Giáo Hội, thì anh sẽ được chính quyền chấp nhận cho vào chủng viện hay được làm linh mục. Nếu chỉ như thế thì dại gì mà không làm? Vì nếu được làm linh mục thì ngoài việc thăng tiến cá nhân, anh còn có thể làm lợi cho Giáo Hội biết bao nhiêu, cứu được biết bao linh hồn! Chỉ một linh hồn thôi cũng đáng giá gấp bội để có thể bù đắp sự thiệt hại do mình gây ra qua việc cung cấp những thông tin mà anh nghĩ là vô hại kia! Hay một linh mục chấp nhận mất đi một mảnh đất của giáo xứ thì việc xây nhà thờ sẽ được chấp nhận dễ dàng hơn, được mở các lớp giáo lý… Một giám mục cũng có thể chấp nhận cho chủng sinh học lý thuyết Marxism trong chủng viện để việc phong chức hay bổ nhiệm nhân sự trong giáo phận, hay việc xin cho một số linh mục xuất ngoại du học… được chính quyền chấp thuận dễ dàng hơn. Như vậy không chỉ thuận lợi cho mình mà còn vì lợi ích của Giáo Hội và các linh hồn nữa! Nhưng than ôi, một khi đã nhượng bộ trong một trường hợp nhỏ, thì sẽ có nhiều cám dỗ để tiếp tục nhượng bộ những trường hợp lớn hơn. Tương tự như để nuôi một lời nói dối, đôi khi phải tiếp tục nói dối trong nhiều trường hợp khác. Chỉ cần chấp nhận lần đầu tiên đổi chác một cách nhẹ nhàng như thế là có thể bắt đầu đi vào quỹ đạo mà chính quyền mong muốn. Người Pháp có câu: «il n’y a que le premier pas qui coûte» (chỉ bước đầu tiên là quan trọng), người Việt cũng thường nói: «đầu xuôi, đuôi lọt» mà!


Chúng ta đừng vội kết án các chủng sinh, linh mục hay giám mục đã chấp nhận những đổi chác như vậy. Tốt nhất hãy tự đặt mình trong hoàn cảnh ấy xem mình sẽ hành động thế nào? Phải thật thánh thiện, phải thật sự khôn ngoan theo cách của Thiên Chúa (chứ không phải cách của người trần), phải dám tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa và phải có thật nhiều ơn Chúa mới có thể giải quyết thật vuông tròn không gì đáng trách trong những trường hợp như thế! Rất tiếc đâu phải ai cũng được như vậy!


3) Phương pháp «cây gậy và củ cà rốt»
«Cây gậy và củ cà rốt» là một phương pháp cổ điển nhưng rất hữu hiệu mà mọi người có thế lực cũng như mọi chính quyền đều dùng để làm chủ tình hình, bắt buộc hay lái mọi người làm theo ý mình. Trong một quốc gia mà luật pháp rõ ràng, thì việc sử dụng phương pháp này sẽ bị hạn chế. Nhưng trong những quốc gia theo luật rừng, theo chế độ «xin-cho» tùy tiện, thì phương pháp này rất dễ thực hiện và rất hữu hiệu.


Ai cũng sợ khổ, sợ gặp khó khăn, phiền nhiễu, sợ lâm vào thế kẹt, sợ chết, và ai cũng ham lợi, ham sướng, muốn thuận lợi, thích dễ dàng… Phương pháp này triệt để áp dụng định luật tâm lý ấy. Để tránh khổ, tránh phiền phức, để được dễ dàng trong đời sống, rất nhiều trường hợp phải xin phép chính quyền (chẳng hạn xin xây sửa nhà, xin đăng ký kết hôn, xin vào chủng viện, xin xuất ngoại, xin di chuyển…). Ở các quốc gia khác, người dân xin phép chính quyền điều gì, nếu điều đó chính đáng theo luật pháp, thì chính quyền có bổn phận phải cho phép. Nếu không, người dân có quyền kiện cáo chính quyền. Nhưng tại Việt Nam, chính quyền có cho phép hay không, điều đó không hoàn toàn dựa trên luật mà phần nào dựa trên sự tùy hứng và tùy nhiều thứ của người có quyền cho phép. Và sự tùy tiện này là điều kiện rất thuận lợi để kẻ có quyền sử dụng phương pháp «cây gậy và củ cà rốt»: nếu anh cứng đầu không chịu nghe lời tôi, không làm theo ý tôi, thì tôi cũng cứng đầu không chấp thuận điều anh xin. Cùng cứng đầu với nhau xem ai thiệt hơn ai? Đương nhiên là người dân phải chịu thiệt. Nếu không muốn chịu thiệt, thì phải chấp nhận «mềm đầu» thôi!


Áp dụng trong phạm vi tôn giáo, nếu lãnh đạo tập thể tôn giáo tỏ ra cứng đầu thì cả tập thể sẽ phải chấp nhận sự kìm kẹp chặt chẽ hơn, xin phép gì cũng khó được chấp thuận. Chẳng hạn, nếu các giám mục hay linh mục cứ nhất định giữ vững lập trường của mình, không chịu làm theo đề nghị của nhà nước, hoặc dám lên tiếng về tình trạng thiếu tự do tôn giáo cho dù ôn hòa cách mấy, thì hậu quả sẽ là: các sinh hoạt tôn giáo trong giáo phận hay giáo xứ mình sẽ bị giới hạn lại, mọi chuyện xin phép cho dù chính đáng cũng đều trở nên khó khăn… Cụ thể là Giáo Hội Công giáo, Giáo Hội Tin Lành Việt Nam nhờ các vị lãnh đạo Giáo Hội im lặng dẫu bị đàn áp, dẫu bị tịch thu đất đai tài sản, và chấp nhận dễ dàng một số yêu cầu của chính quyền mà các sinh hoạt tôn giáo bề ngoài (lễ lạy, xây nhà thờ, dạy giáo lý…) hoặc việc xin xuất ngoại, du học được thuận lợi. Còn giáo phái Tin Lành Mennonite và các Hội Thánh Tin Lành Tư Gia ([11]) hễ bị đàn áp là lên tiếng đấu tranh, là «la lên» cho cả thế giới biết, nên bị chính quyền gây khó dễ trăm chiều, bị bắt bớ, bị đánh đập… thậm chí bị đe dọa tiêu diệt. Những Hội Thánh này chủ trương thà bị bắt bớ, bị khó dễ chứ không chấp nhận thỏa hiệp ([12]).

Ta thử đặt mình vào địa vị của các vị lãnh đạo các Giáo Hội mà suy nghĩ xem: nếu mình cứ cứng đầu thì thiệt hại sẽ về ai? Về mình thì không nói làm gì, nhưng con chiên của mình mới bị thiệt hại nhiều, mà thiệt hại về phần hồn mới là khó chấp nhận. Ích lợi hay thiệt hại phần linh hồn là điều mà các giám mục, linh mục, hay các mục sư, truyền đạo vốn đặt rất nặng. Có nhiều Kitô hữu, mục sư, linh mục hay giám mục cho rằng dù chỉ một linh hồn cũng giá trị hơn những miếng đất rộng bao la, hơn những cơ sở vật chất khang trang đầy tiện nghi rất nhiều. Một linh hồn giá trị đến nỗi Đức Giêsu, là Thiên Chúa, đã sẵn sàng chịu bao đau khổ, sẵn sàng đổ máu mình ra đến nỗi chết để cứu chuộc cơ mà! Vì thế, nếu phải chịu đủ mọi khó khăn, thiệt thòi, chịu mất miếng đất này cơ sở nọ mà cứu được dù chỉ một linh hồn thôi thì cũng đã bõ công lắm rồi! Do đó khi cân nhắc lợi hại của việc cứng đầu, các ngài đành phải chấp nhận xuống nước thôi… Quan niệm của nhiều người bên Kitô giáo là như thế! Nên các vị lãnh đạo bên Công giáo hay Tin Lành thường không quá cứng đầu thì cũng dễ hiểu thôi! Đó cũng là lý do để chúng ta thông cảm cho các ngài. Còn quan niệm như thế là đúng hay sai thì đó là suy nghĩ của mỗi người.

Vì thế, xin đừng hiểu lầm, vấn đề không phải là các vị lãnh đạo bên Kitô giáo ([13]) coi Giáo Hội riêng của mình quan trọng hơn cả tổ quốc. Hoặc coi trọng những điều kiện thuận lợi cho tôn giáo mình hơn cả tình trạng đau khổ và chịu đầy dẫy bất công đàn áp của dân chúng. Vấn đề là các ngài coi giá trị của linh hồn cao hơn, và cao hơn rất nhiều so với những mất mát vật chất, những khó khăn của hoàn cảnh bên ngoài… Chính vì quan niệm như vậy, mà ngày xưa các giáo sĩ thừa sai đã sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, kể cả hy sinh mạng sống, để đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng… chỉ với mục đích cứu các linh hồn. Vì mọi linh hồn đều là vô giá! Người đứng ngoài lãnh vực đức tin Kitô giáo khó có thể hiểu và chấp nhận được lập trường này của các ngài.

Vì thế, các ngài đã chấp nhận nhiều hy sinh – bị mang tiếng là hèn nhát, là im lặng đồng lõa với Cộng sản, với bất công… – chỉ vì muốn tạo điều kiện thuận lợi cho việc cứu rỗi các linh hồn, là điều quan trọng nhất trong sứ mạng hay bổn phận của các ngài. Sứ mạng hay bổn phận này ngầm đòi hỏi sự phát triển và thăng tiến của Giáo Hội, như đào tạo, phong chức và bổ nhiệm các chức sắc, lập chủng viện và chiêu sinh, cử người du học, xuất ngoại, quan hệ ngoại giao với Giáo Hội toàn cầu, mở các lớp giáo lý, đào tạo giáo dân, xây sửa nhà thờ, v.v… Tất cả những sinh hoạt này ở các nước tự do và dân chủ thì không phải xin phép vì chúng đều thuộc quyền căn bản của con người. Nhưng trong chế độ Cộng sản, muốn làm những việc chính đáng này thì đều phải xin phép và phải chờ chính quyền cho phép mới được làm ([14]). Tự do theo nghĩa của Cộng Sản là vậy! ([15]) Nếu tỏ ra cứng đầu với nhà nước thì tất cả những nhu cầu trên đều bị hạn chế hay gặp khó khăn. Và sự thiệt hại trước mắt là về phía các linh hồn, mà trên nguyên tắc đối với các ngài là sự thiệt hại không gì bù đắp được. Vì thế, việc tỏ ra ngoan ngoãn đối với chính quyền để đỡ bị thiệt hại cho các linh hồn một cách nào đó theo quan niệm của các ngài là một thái độ khôn ngoan.

Tuy nhiên, xét theo khía cạnh khác, thì thái độ ngoan ngoãn, im lặng và có vẻ như thỏa hiệp này là một hình thức đồng lõa, làm mất bản chất ngôn sứ của Giáo Hội. Dần dần Giáo Hội trở thành một công cụ ngoan ngoãn trong tay của nhà nước. Và để có được tình trạng dễ thở phần nào trong Giáo Hội, thì Giáo Hội đã phải đánh mất phần nào bản chất quý giá của mình. Như vậy được cái này thì mất cái kia… Vấn đề là cái nào quan trọng hơn cái nào? Điều này tùy quan điểm của mỗi người. Người ta có thể dựa vào những lý do chính đáng nhất để biện hộ cho hành động của mình.


4) Áp dụng pháp luật cách tùy tiện (để hỗ trợ phương pháp «cây gậy và củ cà rốt»)
Một trong những cách rất hữu hiệu để hỗ trợ phương pháp «cây gậy và củ cà rốt» là dùng sự lỏng lẻo và tùy tiện khi áp dụng pháp luật. Ta thấy những luật lệ về tôn giáo – chẳng hạn pháp lệnh tôn giáo mới ban hành – có những điều khoản thật gắt, thật chặt, khiến người đọc cảm thấy không còn một khoảng trống nào cho tự do nữa. Theo pháp lệnh này, tất cả mọi tập thể tôn giáo đều phải được nhà nước công nhận thì mới hợp pháp và mới được hoạt động. Hầu hết mọi sinh hoạt tôn giáo đều phải xin phép mới trở thành hợp pháp. Nhưng luật lệ gắt gao ấy giống như một cái thòng lọng mà nhà nước có thể tùy nghi thắt chặt hay nới lỏng theo từng đối tượng. Đối với những đoàn thể được nhà nước công nhận, sẵn sàng chấp nhận khuôn phép, thì nhà nước có thể làm ngơ cho những sinh hoạt đáng lẽ phải xin phép mà không xin phép. Nhưng đối với những đoàn thể tôn giáo không được nhà nước công nhận thì mọi sinh hoạt như thế đều có thể bị kết án là vi phạm luật pháp.

Tương tự như có luật quy định rằng mọi công dân khi vắng nhà ban đêm đều phải xin phép chính quyền địa phương. Nhưng trong thực tế, người dân bình thường có thể vắng nhà không xin phép cả tháng cũng không hề gì, chính quyền địa phương có biết cũng làm ngơ. Nhưng một người tranh đấu cho dân chủ bị chính quyền lưu ý theo dõi, chẳng hạn như tôi, dù chỉ vắng nhà một đêm không xin phép mà bị chính quyền phát hiện, thì lập tức sẽ bị xử lý theo pháp luật. Thỉnh thoảng chính quyền vẫn đến nhà tôi ban đêm để kiểm tra hộ khẩu, xem tôi có mặt ở nhà hay không. Nếu vắng nhà không xin phép hay trình báo, chính quyền có thể kết án tôi vi phạm pháp luật một cách hết đường chối cãi. Vì thật sự là có luật như thế đã được ban hành rồi và vẫn còn đang có hiệu lực. Trên nguyên tắc thì đối tượng của luật này là tất cả mọi công dân trong nước, nhưng trong thực tế thì chỉ áp dụng cho những đối tượng đặc biệt mà thôi!

Rất nhiều luật được lập ra nhưng có những người vi phạm thậm chí thường xuyên cũng không sao, nhưng có người vi phạm chỉ một lần mà bị phát hiện thì sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Đó cũng là một cách hữu hiệu để hạn chế và gây khó khăn cho những tiếng nói tranh đấu ở trong nước.


5) Gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ nhau
Người ta biết rõ một số trường hợp cụ thể chính quyền đã gài người vào trong một số tập thể nào đó. Thế là trong cả những tập thể khác liền có sự nghi ngờ lẫn nhau, không biết ai là người được chính quyền gài vào tập thể mình.


Một mục sư Tin Lành cho tôi biết: trong một buổi họp chỉ gồm những người đứng đầu hay đại diện các giáo phái Tin Lành để bầu các chức vụ trong hiệp hội các giáo phái, vừa bầu xong thì chỉ mấy phút sau vị mục sư mới đắc cử chủ tịch liền nhận được điện thoại của ban tôn giáo thành phố chúc mừng ông trúng cử. Việc chính quyền biết ngay tức khắc kết quả cuộc bầu cử khiến các mục sư nghi ngờ rằng đã có ít nhất một người trong nhóm làm nội ứng cho họ. Và vị này đã dùng điện thoại di động mở sẵn như một máy ghi âm để truyền thanh trực tiếp buổi bầu cử ấy cho chính quyền. Làm sao biết được ai làm chuyện ấy? Vì thế, trong tập thể lập tức phát sinh tình trạng người này nghi ngờ người kia. Về sau, trong các buổi họp, tất cả các mục sư đều được yêu cầu tắt điện thoại di động và để điện thoại ngay trước mặt. Nhưng biện pháp này chẳng hữu hiệu chút nào, vì nếu ông mục sư «hai mang» mang hai điện thoại di động đi thì ai mà biết được?

Trong tình trạng nghi ngờ nhau như thế, làm sao các vị lãnh đạo tôn giáo có thể đoàn kết với nhau, có thể hoạch định với nhau một việc gì cần kín đáo để phát triển Giáo Hội được? Biết bao chuyện kín đáo trong nội bộ tôn giáo đã được báo cáo cho công an nhờ những tay «hai mang» đắc lực này! Chuyện xảy ra trong tập thể này, thì chắc chắn cũng đã, đang và sẽ xảy ra trong các tập thể khác.
Vì thế, chúng ta không nên lấy làm lạ tại sao HĐGMVN nhiều khi không thể thống nhất với nhau một đường lối mạnh mẽ để bảo vệ Giáo Hội và để đối phó với chính sách phá hoại tôn giáo của nhà nước. Tốt nhất hãy thông cảm với các ngài hơn là kết án! Một giám mục nọ muốn biểu lộ sự ủng hộ của ngài đối với việc lên tiếng cho tự do tôn giáo của tôi, cũng phải nói với tôi một cách kín đáo, phải ngó trước ngó sau rồi mới nói, mặc dù cả hai chúng tôi lúc đó đang ở trong sân một chủng viện. Phải chăng các ngài đã từng có những kinh nghiệm chua chát, đau thương về chuyện này?

Chỉ cần biết chắc trong tập thể có một hai người làm nội gián mà không xác định rõ được ai, thì chuyện làm việc chung với nhau liền trở nên rất khó khăn. Nhất là khi cần đi tới những quyết định chung quan trọng mang tính đối phó với nhà nước. Chỉ cần nhà nước biết nội dung quyết định ấy thế nào thì quyết định ấy đã bị vô hiệu hóa rồi, chưa nói đến sẽ có nhiều người bị phiền nhiễu trong quá trình thực hiện quyết định ấy!

Và đương nhiên những ai dám hành xử theo lương tâm đi ngược với chính sách nhà nước sẽ được các tay «hai mang» báo cáo cho công an để họ nắm vững và lên phương sách đối phó. Đương sự có thể sẽ bị cô lập, sách nhiễu hoặc bị gây khó khăn để không làm gì được. Trong một hoàn cảnh khó khăn như thế, nhiều người cho dù thiện chí và can đảm cũng đành phải buông xuôi… vì mọi cố gắng của mình chẳng đi đến đâu, mà chỉ có hại cho bản thân, gia đình và tập thể mình lãnh đạo thôi.


Chỉ người ở trong cuộc mới có thể hiểu hết những khó khăn và hạn chế của mình. Đôi khi đành phải chấp nhận mang tiếng là hèn nhát để tập thể mà mình phụ trách đỡ bị thiệt hại. Chấp nhận mang tiếng xấu như thế quả là một hy sinh to lớn. Nói thế không có nghĩa là tôi muốn loại trừ những trường hợp có những giáo sĩ, giáo dân – thậm chí rất cao cấp hay rất trí thức – vì hèn nhát mà không dám lên tiếng tranh đấu cho Giáo Hội. Hoặc sẵn sàng làm những việc trái ngược với lương tâm, với quyền lợi của Giáo Hội hay quê hương mình, như làm tay sai cho chế độ, chỉ điểm cho công an những người dám tranh đấu bảo vệ Giáo Hội, chống áp bức bất công, hoặc dám chống lại chính sách đàn áp tôn giáo của nhà nước… Điều này đã từng xảy ra không ít trong các nước Cộng sản ở Đông Âu, Trung Hoa, như đã từng được mô tả trong những tác phẩm viết về tình trạng các tôn giáo bị đàn áp trong chế độ Cộng sản ([16]).


6) Gài bẫy
Một trong những phương cách rất hữu hiệu để những nhân vật có uy thế phải im lặng hoặc trở thành tay sai cho chế độ, đó là gài bẫy để họ phạm phải một lầm lỗi nào đó. Dễ dàng nhất là sử dụng mỹ nhân kế.
Đây là một kế tuyệt vời, rất hữu hiệu, có khả năng làm tê liệt tức khắc những tiếng nói oanh liệt trong Giáo Hội. Vì bất cứ ai đang có uy tín trong Giáo Hội mà vướng phải những lầm lỗi liên quan đến phụ nữ, đến điều răn thứ sáu ([17]), không ít thì nhiều, đều bị mất uy tín, không chỉ với giáo quyền, mà còn với dân chúng nữa. Giáo dân Công giáo thường có quan niệm rất khắt khe về vấn đề này, khiến cho người lỡ phạm lỗi phải cố gắng che dấu lầm lỡ của mình. Và để che dấu, người ta có thể chấp nhận dễ dàng những điều kiện mà kẻ gài bẫy đưa ra như một lối thoát.


Kế này cũng rất dễ thành công, vì nó đánh vào một điểm rất yếu của con người, cũng là một nhu cầu tự nhiên và rất lớn thuộc bản năng con người. Nhất là khi con người đã ở trong một tình trạng ít nhiều mất sáng suốt, kém tự chủ, chẳng hạn trường hợp uống rượu say, hay dùng phải một chất kích thích hoặc một loại thuốc kích dục được pha trộn trong thức ăn đồ uống… Trong tình trạng mất sáng suốt, lại ở một nơi có vẻ kín đáo, bảo đảm không ai thấy, một người nam bị cám dỗ bởi một người nữ vừa đẹp lại vừa khêu gợi, nếu không thuộc loại bản lãnh siêu cường thì hầu như chắc chắn phải sa ngã. Và trong một cuộc gài bẫy, những hành động của người ấy ắt nhiên được ghi lại cách nào đó để làm bằng chứng tội phạm.


Để những bằng chứng này được giữ kín, nạn nhân sẽ phải chấp nhận một số điều kiện nào đó mà người gài bẫy đưa ra. Chẳng hạn im lặng không lên tiếng, hoặc có một thái độ chấp nhận dễ dàng hơn những đề nghị của chính quyền, hoặc chấp nhận làm một công tác nào đó. Người Việt Nam có tính «sĩ diện», coi danh dự của mình là quan trọng, nên nếu không có lương tâm ngay thẳng và mạnh mẽ, sẽ rất dễ chấp nhận những điều kiện mà chính quyền đưa ra, để những lầm lỡ của mình được ém nhẹm. Tôi rất phục linh mục Nguyễn Văn Lý trong việc phá được kế này, không để cho việc lầm lỡ của mình (có thể do bị gài bẫy) và việc bảo vệ uy tín của mình về chuyện này khiến mình phải câm lặng trước những bất công sai trái của chế độ. Bất chấp bị đưa ra trước công luận lầm lỡ của mình, linh mục vẫn lên tiếng một cách mạnh mẽ.

Một nhà tranh đấu nọ cho tôi biết là ông rất lấy làm lạ khi thấy người bạn cùng tranh đấu với ông trong một vụ nọ, đã tự nhiên thay đổi lập trường, trở nên dễ bảo hơn, dễ chấp nhận những yêu cầu của chính quyền hơn, sau khi ông chấp nhận lời mời đi ăn uống với các nhân viên chính quyền. Ông nghi ngờ người bạn này đã bị gài bẫy mỹ nhân kế kết hợp với việc sử dụng chất kích dục, vì quả khó mà nghĩ ra một cách nào khác giải thích sự thay đổi đột ngột ấy. Con người vốn bị cám dỗ nặng nề về tính dục, nếu để tự nhiên thì chỉ khi có điều kiện thuận tiện mới sa ngã. Nhưng nếu bị chất kích dục kích thích, thì tùy theo nồng độ, con người có thể đi đến những hành động sàm sỡ công khai ngay trước mặt mọi người.

Đây là một kế rất hữu hiệu và tương đối dễ thực hiện. Hầu như chính quyền nào cũng áp dụng kế này, nhưng nhất là chính quyền Cộng sản, vốn không từ một mưu kế nào để thực hiện điều mình muốn, nên việc sử dụng kế hữu hiệu này là chuyện khó tránh khỏi. Các chính quyền khác phải e dè những nguyên tắc đạo đức, phải sợ dư luận của quần chúng hay của phe đối lập, còn những chính quyền vô thần, độc tài độc đảng thì đâu có những ngăn trở như vậy mà phải sợ


7) Cho phép lạm quyền, vi phạm luật… để có thể sai khiến
Để có thể khống chế và sai xử dễ dàng những cán bộ thuộc quyền, nhà nước có thể làm ngơ cho những sai phạm hay vi phạm pháp luật của họ, nhưng ghi nhớ và lưu trữ bằng chứng. Chẳng hạn hiện nay, biết bao quan chức trong nước làm văn bằng giả mạo (từ tiểu học cho đến tiến sĩ), hối lộ tham ô, chiếm đất đai của dân chúng cách bất công, hoặc hiếp dâm phụ nữ… Chính quyền dù có biết rất rõ cũng vẫn làm ngơ, dung túng để họ trung thành với mình. Nếu cần sai xử những cán bộ này thực hiện điều gì mà họ không chịu làm, hay khi họ lên tiếng tranh đấu mà muốn bắt họ im lặng, thì nhà nước có thể dùng những bằng chứng vi phạm pháp luật này để đe dọa truy tố. Hoặc họ có thể bị biến thành những «con dê tế thần» hầu xoa dịu sự phẫn nộ của dân chúng khi bị dân chúng kêu ca quá đáng. Vì thế, muốn được yên thân thì những kẻ đã phạm lỗi này phải biết điều, phải làm theo lệnh trên, hoặc phải im lặng… Vì thế, những cán bộ đã từng vi phạm pháp luật, đã tham ô, đã nhận hối lộ, đã xài bằng giả, v.v… dẫu có giác ngộ con đường dân chủ, dẫu có muốn đứng về phía dân chúng, thì cũng không dám lên tiếng, vì «há miệng mắc quai».
8) Nắm cho được người đầu. Đập giập đầu rắn


Một trong những chính sách đối với tôn giáo của nhà nước Việt Nam là: làm sao nắm được người lãnh đạo tập thể. Một khi đã nắm được người lãnh đạo của một tôn giáo, một đoàn thể, một giáo phận, một giáo xứ… thì kể như là nắm được toàn thể tập thể đó. Sở dĩ như vậy là vì nói chung, người Việt Nam vẫn có truyền thống tôn sư trọng đạo, luôn luôn kính nể và tuân phục người lãnh đạo mình, khi người lãnh đạo còn tỏ ra ít nhiều xứng đáng, thậm chí không còn xứng đáng nữa… Tính chất này còn rõ rệt hơn nơi các tín đồ tôn giáo, nhất là các tín hữu Công giáo. Các tín hữu Công giáo thường coi các linh mục, giám mục như những vị đại diện cho Thiên Chúa ở trần gian. Vì thế, họ sẵn sàng nghe theo lời chủ chăn, cho dù lời của chủ chăn ngược với ý họ, hay họ thấy chủ chăn không được đúng hay hợp lý cho lắm. Số người chủ trương «vâng lời tối mặt» cũng còn chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong các cộng đồng Công giáo. Vì thế, nhà nước Cộng sản luôn luôn quan tâm tới việc làm sao nắm được người lãnh đạo các tập thể trong Giáo Hội, mà quan trọng nhất là các giám mục.


Một linh mục nọ kể lại cho tôi lời của một anh công an nói với ông: «Trong một giáo phận, chúng tôi chỉ cần nắm được giám mục giáo phận ấy là kể như giáo phận ấy không còn vấn đề gì đáng ngại nữa». Tôi nghĩ anh công an ấy đã rất thành thực khi nói câu ấy. Vì thế, một trong những nỗ lực rất lớn của chính quyền là chi phối các giám mục để có thể điều khiển được cả giáo phận. Nếu những nỗ lực đó thành công, lúc ấy nhà nước nói thì giám mục nghe, giám mục nói thì linh mục nghe, và linh mục nói thì giáo dân nghe, thế là cả giáo phận đều làm theo ý nhà nước. Đương nhiên không dễ gì mà làm cho một giám mục nghe theo ý nhà nước hoàn toàn, nhưng nghe được nhiều chừng nào thì tốt chừng nấy. Tuy nhiên cũng có những chủ chăn «yếu bóng vía», hay «sợ bóng sợ gió», chưa dọa đã sợ, hoặc có một lỗi nặng nào đó muốn che dấu mà nhà nước biết được. Những vị này nhà nước nắm đầu thật dễ dàng.


Đó chính là lý do tại sao nhà nước lại nhất định phải can thiệp vào việc bổ nhiệm giám mục, bề trên các chủng viện hay tu viện. Họ dành quyền «phủ quyết» trong lãnh vực này. Dù Tòa Thánh có bổ nhiệm một người tài đức cách mấy làm giám mục, nếu chính quyền thấy vị này thuộc loại cứng đầu, không dễ gì nắm đầu được, thì vị này khó mà được họ chấp nhận. Họ chỉ chấp nhận những người nào mà họ hy vọng có thể «nắm» được, ít nhất là một phần nào. Để «nắm» được những người lãnh đạo này, chính quyền có thể dùng những phương cách đã kể trên: từ bao vây kinh tế, sách nhiễu, đe dọa, đến đổi chác, gài bẫy, v.v… Và chúng ta cũng nhận thấy họ đã phần nào thành công khi các giám mục, linh mục Việt Nam đã giữ được một thái độ im lặng, thụ động trong một thời gian rất lâu. Cho dẫu nhiều người trong Giáo Hội bị tù đày hay quản chế cách bất công và phi luật pháp, cho dẫu Giáo Hội bị đàn áp, bị khó dễ, bị mất mát tài sản, quyền lợi. Bất chấp những lời tha thiết van xin các ngài lên tiếng của một số con chiên bức xúc về tình trạng Giáo Hội… Cũng may về sau có một vài vị lên tiếng, nhưng chỉ lên tiếng cách rất dè dặt và ôn hòa.

Nếu có một tôn giáo, một giáo phái, một giáo phận nào không chấp nhận sự kiểm soát, khống chế của họ, dám tỏ thái độ bất khuất, dám lên tiếng phản kháng… thì họ phải tìm cách triệt hạ hoặc hạn chế tầm hoạt động của vị lãnh đạo ấy. Trường hợp Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền, Hòa thượng Thích Huyền Quang, Hòa thượng Thích Quảng Độ, Mục sư Nguyễn Hồng Quang… là những thí dụ điển hình và cụ thể. Đây là một phương cách cổ xưa như trái đất: «Đánh rắn thì phải đánh vào đầu». Đức Giêsu đã lấy lại lời của ngôn sứ Dacaria để nói lên chiến thuật ấy: «Hãy đánh mục tử thì đàn chiên sẽ tan tác» (Dc 13,7; x. Mt 26,31; Mc 14,27; Cv 5,36). Triệt hạ mục tử cũng là cách dằn mặt những mục tử kế nhiệm để các vị này tránh vết xe cũ – là dám cứng đầu, đối kháng – mà chấp nhận một đường lối mềm dẻo hơn.
9) Tiệm tiến, tiến từng bước một


Để có thể ngày càng hạn chế số người lên tiếng tranh đấu đòi dân chủ và tự do, đòi tự do tôn giáo và nhân quyền, đồng thời gia tăng số người ủng hộ chế độ, nói tốt cho chế độ lên, nhà nước đã yêu cầu các cán bộ của mình phải biết mềm dẻo và tiến tới từng bước một, thậm chí có thể «lùi một bước để tiến hai bước». Phải chấp nhận thời gian khi muốn thay đổi lòng người, không thể đốt giai đoạn, vì «dục tốc bất đạt». Nghĩa là họ phải hoạt động làm sao để:


– người đang chống thì bớt chống hơn, và không liên kết với nhau được.
– người đang cứng rắn thì trở nên ôn hòa, mềm dẻo hơn.
– người đang lên tiếng thì trở thành im lặng, thụ động, chấp nhận làm ngơ trước bất công, đàn áp, trước những trái tai gai mắt, trước những vi phạm tự do tôn giáo, nhân quyền.
– người đang thụ động im lặng thì nói thuận theo, ủng hộ chế độ.
– người đang nói thuận theo thì trở thành người hoạt động tích cực.
– người đã hoạt động thì trở thành tay sai, «hai mang», làm nội gián, tự động báo cáo cho công an những gì nhà nước muốn biết…


Để thực hiện được từng bước tiến một như thế, các cán bộ cần phải biết áp dụng kết hợp những phương cách trên tùy theo tình huống cụ thể. Và cứ tiệm tiến từng bước như thế trong một thời gian dài, người cán bộ có thể dần dần biến một người từ chống đối mãnh liệt trở thành người hoạt động tích cực cho chế độ. Quá khứ cho thấy họ đã thành công trong việc biến đổi một số khá đông người theo chiều hướng họ muốn. Thật vậy, họ đã biến được một số linh mục từ chống đối hoặc không chịu cộng tác đến chỗ dường như hoàn toàn nói theo lập trường Cộng sản, dù biết đó là sai sự thật: chẳng hạn đã có những linh mục sẵn sàng sang Hoa Kỳ để giải độc cho Cộng sản về tự do tôn giáo, hoặc sẵn sàng viết những bài báo ca tụng chế độ…


10) Dùng pháp luật, tòa án để dập tắt những tiếng nói tranh đấu
Trước áp lực quốc tế, và để có thể nhận được những quyền lợi từ các nước khác (chẳng hạn được gia nhập WTO, được vay tiền, được viện trợ…), chính quyền Việt Nam bị buộc phải tôn trọng nhân quyền, đặc biệt tự do tôn giáo. Bị các thế lực nhân quyền quốc tế lên án quá nhiều, họ không còn có thể bắt bớ người một cách vô cớ như những thập niên đầu sau khi chiếm thêm được miền Nam năm 1975. Vì thế, họ đã dùng pháp luật kiểu «luật rừng» để đàn áp những người lên tiếng tranh đấu: thay vì bỏ tù hay giết họ cách lén lút, thì đưa ra tòa án xét xử, nhưng thường là xét xử một cách lén lút, không công khai, vì họ không cho ai ngoài người thân nhất của bị can tham dự. Để có thể kết án những người tranh đấu cho dân chủ, chính quyền có thể gán ghép cho họ một tội danh nào đó mà họ không hề phạm, một cách hết sức gượng ép. Chẳng hạn khi xử linh mục Nguyễn Văn Lý, tòa án không biết ghép cho ông tội gì, chỉ biết ghép một tội rất mơ hồ không có trong luật pháp: «phá hoại đoàn kết dân tộc». Hoặc chỉ dựa vào việc liên lạc với bên ngoài để kết án bác sĩ Phạm Hồng Sơn là gián điệp… Ai cũng biết là tòa án ngụy tạo ra tội để kết án những kẻ vô tội, nhưng trong một chế độ độc tài thì người dân dù có biết điều ấy cũng chẳng dám làm gì khác hơn là im lặng. Pháp luật và tòa án thay vì bênh vực cho công lý, thì lại trở thành công cụ để chính quyền đàn áp, bịt miệng người dân.


Để hợp pháp hóa việc đàn áp, bắt bớ, nhà nước đã ra những luật lệ như nghị định 31/CP do thủ tướng Võ Văn Kiệt ban hành ngày 14-4-1997 cho phép công an được phép tùy tiện quản chế tại gia những cá nhân (bị quy kết tuỳ tiện là) vi phạm an ninh quốc gia, mà không cần thủ tục pháp lý (chẳng hạn lệnh của tòa án) hay được đem ra toà án xét xử. Hòa thượng Huyền Quang, Quảng Độ, linh mục Phan Văn Lợi… đang là nạn nhân của nghị định này. Hay dựa trên pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo do Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2004, nhà nước có thể quy kết những sinh hoạt tôn giáo chính đáng của những tập thể tôn giáo không được nhà nước công nhận là bất hợp pháp, là vi phạm pháp luật hầu có cớ pháp lý mà bắt bớ hay kết án… Các Hội Thánh Tin Lành Tư Gia đang là nạn nhân chính của pháp lệnh này.


11) Những lý do chủ quan khiến người dân im lặng
Ngoài những lý do nhà nước tạo nên để làm câm lặng những tiếng nói đấu tranh trong nước, người dân nhiều khi không thể lên tiếng tranh đấu vì những hạn chế của riêng mình. Sau đây là một vài trường hợp điển hình:


Có những người muốn lên tiếng tranh đấu, nhưng tự xét thấy mình không có khả năng, đã than thở với tôi: «Tôi cũng muốn lên tiếng lắm, nhưng tôi không biết lên tiếng thế nào đây? Dù cũng khá trí thức đấy, nhưng quả thật tôi viết lách không quen. Viết một lá thư cho người thân mà tôi phải loay hoay mất cả mấy tiếng đồng hồ, vậy thì làm sao tôi viết được một bài lên tiếng tranh đấu cho tự do, dân chủ, vốn đòi hỏi phải mất công và mệt trí hơn rất nhiều?»

Một người khác nói với tôi: «Phải công nhận anh thật bình tĩnh khi đối diện với công an, và trả lời họ một cách thật khôn ngoan và khéo léo khiến họ không kết tội anh được. Nhưng quả thật tôi không được như anh. Gặp công an là tôi run cầm cập, bao nhiêu khôn ngoan bình thường của tôi đều biến đâu mất cả. Lúc đó dù tôi không có tội, nhưng cách trả lời ngu xuẩn của tôi cũng biến tôi thành có tội. Như vậy làm sao tôi tranh đấu được?»

Một người khác nữa nói: «Tôi cũng muốn lên tiếng, nhưng biết lên tiếng ở đâu bây giờ? Tôi chỉ là một thằng dân đen, tiếng nói của tôi có giá trị gì? Vừa lên tiếng là bị dập tắt ngay. Thế giới chưa nghe được tiếng của tôi, thì tôi và gia đình đã phải khốn khổ trăm chiều rồi, còn sức đâu mà lên tiếng được nữa?! Tôi nghe nói trong chế độ này chỉ có thể lên tiếng trên Internet thôi, mà tôi thì chẳng biết Internet là gì!»
Quả thật, không phải cứ muốn lên tiếng là lên tiếng được. Phải có một số điều kiện thuận lợi nào đấy. Chẳng hạn phải có thể viết lách được, phải có khả năng ứng đối, phải nắm trong tay một số những phương tiện thông tin liên lạc, nhất là phải có can đảm được thúc đẩy bởi tình yêu quê hương, yêu Giáo Hội thật sự. Không có điều sau cùng này thì dù có tất cả mọi thuận lợi khác cũng vô ích. Có nó, thì dù không có những điều khác cũng có thể trở thành có.


Có những người không lên tiếng vì có những quan niệm hẹp hòi hay có một chủ trương triết lý sai lầm nào đó. Chẳng hạn:

Một trí thức nọ nói: «Mọi chuyện đã có Thiên Chúa lo, chuyện nước thì có vận nước, mình nhỏ bé quá đâu lo chuyện vận nước được. Tôi bây giờ chỉ làm những gì có thể làm được trước mắt: biết bao kẻ đau khổ cần tôi an ủi, biết bao người bệnh cần tôi chăm sóc, biết bao trẻ em bơ vơ cần được giáo dục, nuôi dưỡng… Những việc này làm đã không xuể, nghĩ chi đến những chuyện xa vời, nguy hiểm, ngoài khả năng của mình?!» Tôi trả lời: «Những chuyện ấy đúng là cần phải làm và phải có người làm, nhưng dẫu sao giải quyết những chuyện ấy chỉ là giải quyết vấn đề ở ngọn thôi. Có một cái gốc phát sinh ra những tệ nạn và đau khổ ấy, đó là chính sách cai trị kém sáng suốt của những kẻ cầm quyền thiếu thiện chí! Phải giải quyết vấn đề từ gốc thì mới hữu hiệu! Nhà cháy mà không ai tìm cách dập tắt, ai cũng chỉ lo chạy đồ đạc, cứu người bị phỏng thì đám cháy bao giờ mới hết được? Nó sẽ lan hết nhà này đến nhà khác. Muốn chạy đồ đạc, muốn cứu người mà không cố gắng dập tắt ngọn lửa, thì sẽ tha hồ có việc mà làm, những việc đang làm ấy sẽ tự phát sinh không bao giờ hết được!»

Một linh mục nói với tôi: «Giáo Hội cũng đã có những người lên tiếng cho quyền lợi chính đáng của Giáo Hội như các linh mục Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Hữu Giải, Phan Văn Lợi, Chân Tín và cả anh nữa. Các vị ấy và anh đã lên tiếng thay cho chúng tôi rồi! Quốc tế đã biết những gì cần phải biết rồi! Vì thế, chúng tôi nên làm những chuyện khác cũng cần cho Giáo Hội. Giáo Hội cũng còn có biết bao chuyện phải làm, không chỉ có chuyện tranh đấu cho quyền lợi của mình! Mỗi người có một phận sự riêng!» Tôi trả lời: «Phải rồi, Giáo Hội còn biết bao nhiêu chuyện phải làm! Nhưng việc tranh đấu cho sự sống còn và duy trì bản chất phải có của Giáo Hội là việc quan trọng, là bổn phận của mọi người, và cần rất nhiều người cùng làm mới thành công được. Chỉ có một vài người lên tiếng như thế thì chẳng đi đến đâu! Vả lại, những người lên tiếng tranh đấu đâu phải chỉ làm có mỗi việc tranh đấu! Họ vừa tranh đấu mà cũng vừa làm những chuyện cần thiết khác cho Giáo Hội, thậm chí cũng đâu kém gì ai!? Không thể lấy lý do bận chuyện khác để miễn cho mình bổn phận ấy được! Chính tôi đây cũng vẫn hăng hái làm việc cho Giáo Hội, lại còn phải làm kinh tế nuôi sống gia đình, mà vẫn lên tiếng tranh đấu. Nếu ai cũng đùn đẩy chuyện tranh đấu cho người khác thì Giáo Hội mình vẫn tiếp tục bị đàn áp, bị cấm đoán là phải rồi!»


Có người tâm sự với tôi: «Lên tiếng tranh đấu mà làm chi? Cái gốc phát sinh ra mọi sự dữ là tính tham, sân, si của con người. Điều quan trọng là phải diệt cái gốc ấy. Chế độ có thay đổi mà cái gốc ấy còn, thì đồng bào cũng vẫn phải đau khổ trăm bề. Anh hãy lo trừ diệt cái tham sân si ấy nơi lòng người đi đã!» Tôi trả lời: «Các tôn giáo đang cố gắng làm chuyện ấy đấy chứ! Sứ mạng của các tôn giáo là giáo dục lòng người, là diệt trừ tham sân si, nguồn gốc mọi tệ nạn và đau khổ. Nhưng nhà nước này có cho các tôn giáo được tự do thực hiện sứ mạng ấy đâu? Các tín đồ Tin Lành vừa mới nhóm họp với nhau tại tư gia để giúp nhau thực hiện điều ấy thì lập tức công an đến giải tán, lại còn khó dễ họ nữa! Các tôn giáo muốn mở trường để giáo dục thanh thiếu niên thì nhà nước không cho phép. Họ chỉ cho phép các tôn giáo chăm sóc những người bị bệnh AIDS, bị cùi, bị tàn tật… toàn là những người sắp chết, để họ vừa được tiếng là cho tôn giáo có phần nào tự do, vừa đỡ cho họ một ngân sách và một số nhân sự quan trọng mà đúng ra họ phải làm! Mình chỉ được lo chữa cái ngọn, còn cái gốc là vấn đề giáo dục thì mình không được can dự vào.

Muốn diệt được tham sân si nơi lòng người, là cái gốc phát sinh mọi sự dữ như anh muốn, thì phải tranh đấu để các tôn giáo được tự do hoạt động đã, chứ một mình anh với tôi thì sao làm nổi chuyện thay đổi lòng người?»


Người khác nói: «Anh thấy không, có tự do tôn giáo thì chỉ làm cho các linh mục hư đi mà thôi! Có tự do thì mấy ổng sống giàu sang, bê bối, hách dịch… Còn giáo dân thì sẽ ít quan tâm tới Chúa hơn, ít lui tới nhà thờ hơn. Bên Âu châu kìa, chẳng có tự do tôn giáo sao? Thế mà nhà thờ vắng tanh, nhiều nhà thờ phải cho thuê để có tiền đóng thuế cho chính phủ. Chính trong hoàn cảnh khó khăn này Giáo Hội mới phát triển về phẩm chất, anh không thấy lịch sử Giáo Hội chứng minh điều đó sao?» Tôi trả lời: «Trong những chế độ khác thì điều anh nói là đúng. Nhưng trong chế độ này thì hoàn toàn khác hẳn! Chế độ này đang cho các tôn giáo được tự do trong những chuyện bên ngoài: lễ lạy, rước sách linh đình, xây nhà thờ, tạo cơ sở vật chất… Điều này có thể còn làm hư các linh mục hữu hiệu hơn nhiều, làm cho cả linh mục lẫn giáo dân chỉ còn biết đến những chuyện bên ngoài ấy mà thôi. Nhưng tôn giáo không phải là cái vỏ bên ngoài ấy, mà cốt yếu của tôn giáo là cái gì ở sâu bên trong. Linh mục cần có cái bên trong ấy hơn, và cái sâu xa bên trong ấy phải đào tạo công phu lắm mới có được. Nhưng nhà nước lại không cho Giáo Hội được tự do đào tạo các linh mục theo ý mình. Điều tôi thấy hiện nay là Giáo Hội Việt Nam đang đánh mất bản chất ngôn sứ của mình để đổi lấy thứ tự do tôn giáo giả tạo bề ngoài. Chính nhà nước cũng muốn khuyến khích thứ tự do tôn giáo giả tạo ấy để đánh lừa thế giới là Việt Nam có tự do tôn giáo. Khi chỉ chú trọng và phát huy những gì bên ngoài là Giáo Hội mắc bẫy nhà nước, và Giáo Hội đang đi đúng quỹ đạo mà họ mong muốn. Với quỹ đạo này, Giáo Hội dần dần sẽ trở thành công cụ trong tay nhà nước. Tôi thấy Giáo Hội đang chấp nhận im lặng thay vì phải nói lên tiếng nói ngôn sứ của mình».
12) Nỗi sợ hãi có sẵn trong lòng người


Còn biết bao lý do chủ quan và khách quan khác khiến người ta không muốn lên tiếng đấu tranh cho những quyền lợi chính đáng của mình, và chấp nhận tình trạng hiện có của đất nước. Tuy nhiên, có một lý do chung rất sâu xa nằm sâu trong vô thức hay tiềm thức, trong cơ cấu tâm lý con người.
Người Việt Nam rất bất khuất, rất anh hùng đối với ngoại bang, nhất là khi bị ngoại bang đô hộ. Tự ái dân tộc khiến họ sẵn sàng đứng lên khi có người hô hào nổi dậy. Nhưng người Việt Nam lại rất tôn trọng kẻ bề trên đang nắm quyền cai trị mình, cho dù đó là một bạo chúa. Trong tôn giáo cũng vậy: dù cha sở có bê bối, tội lỗi, đối xử với giáo dân tệ bạc đến đâu, người giáo dân vẫn một mực chịu đựng, thậm chí còn bao che cho ông, cho đến khi không chịu nổi nữa mới kiện lên giám mục. Dân Việt mình sẵn sàng nhẫn nại, chịu đựng, chấp nhận bất công, áp bức, cho dù vua quan hay bề trên của mình có tàn nhẫn gấp nhiều lần người ngoại bang đô hộ mình. Dân mình không khác gì một người vợ có thể kiên trì chịu đựng chồng đánh đập, đối xử tệ bạc gấp chục lần người ngoài… nhưng lại không chấp nhận để cho một người đàn ông nào khác đụng đến chân lông của mình. Quả thật, người Việt Nam không thiếu gì những người vợ hiền lành đến như vậy.

Lịch sử đất nước đã phần nào chứng tỏ điều ấy. Người dân có thể đứng dậy kháng chiến chống ngoại xâm thật mạnh mẽ, đầy khí thế: chống nhà Hán, quân Nguyên, nhà Minh, nhà Thanh… và mới đây, chống Pháp, chống Nhật… Khi đất nước bị đô hộ thì luôn luôn có những anh hùng chiêu mộ nghĩa quân nổi dậy để đòi lại chủ quyền đất nước: như bà Trưng, bà Triệu, Ngô Quyền, Lê Lợi, Hoàng Hoa Thám, Trương Công Định, Nguyễn Thái Học, v.v… Nhưng khi gặp phải những bạo chúa như Hồ Quý Ly, Lê Long Đĩnh, v.v… hay các tín đồ Công giáo gặp những vị vua cấm đạo nghiêm khắc như Minh Mạng, Tự Đức… thì dù có ta thán, oán hờn, nhưng dân chúng vẫn một lòng kiên trung với nhà vua chứ không hề có ý muốn phản loạn… Những bạo chúa thường chỉ bị lật đổ là do con cháu của các vua chúa cũ đứng dậy để thiết lập lại triều đại của cha ông mình hơn là do dân chúng bất mãn mà nổi dậy.


Có quan điểm cho rằng tâm lý chung này là do ảnh hưởng của Khổng giáo. Tôn giáo này đã đề cao quá đáng đến mức tuyệt đối hóa vai trò và quyền hạn của vua quan. Lý thuyết «Quân, Sư, Phụ» coi nghĩa vụ đối với vua, quan là cao nhất, thiêng liêng nhất, rồi mới tới bổn phận đối với thầy, và sau đó mới tới cha mẹ mình. Theo lý thuyết này thì «Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung» (vua bắt bề tôi phải chết mà bề tôi không chấp nhận chết là bất trung), coi việc «trung quân» (trung thành với vua) như một chuẩn mực vô cùng quan trọng của đạo đức con người. Từ đó người dân phải coi vua chúa và quan quyền là «dân chi phụ mẫu», trong xã hội cũng như trong tôn giáo. Vì thế, quan niệm của Khổng giáo đã khiến người Á Đông nói chung, và người Việt nói riêng, chỉ biết vâng lời tối mặt mà không dám phản kháng, cho dẫu «phụ mẫu» ấy có sai trái đi nữa. Đặc biệt giới trí thức, được đúc theo khuôn «quan văn» thì chỉ biết thụ động, chỉ biết một lòng cung cúc phục vụ bề trên, không chỉ trong xã hội mà trong tôn giáo có thể còn hơn như vậy. Cũng có quan điểm nói rằng những cuộc chiến dai dẳng vừa qua đã tạo một chấn thương tâm não quá lớn khiến nhiều thế hệ người Việt hiện tại không còn khả năng và ý thức đối kháng nữa. Ngoài ra còn phải kể hoàn cảnh nô lệ – ngàn năm với Tàu, trăm năm với Pháp – đã làm cho tâm lý luồn lách thấm sâu vào xương thịt của dân Việt. Nó đã trở thành một triết lý sống cụ thể: «Khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ biết mới sống». «Biết mới sống» ở đây được quan niệm lệch lạc đi là biết luồn lách, biết đút lót, biết «tránh voi chẳng xấu mặt nào»… cho được việc của mình. Thể hiện tích cực của triết lý này là dân Việt dễ hội nhập, dễ thích ứng với mọi hoàn cảnh. Nhưng thể hiện tiêu cực của nó là dân chúng thụ động, thích luồn lách; nếu có đối kháng thì chỉ biết chửi đổng bằng những chuyện tiếu lâm, thơ con ong, thơ trào phúng…

Tâm lý chung đó vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay. Cho dù chế độ Cộng sản Việt Nam hà khắc hơn bất kỳ chế độ đô hộ nào của ngoại bang, người dân dường như vẫn có thể kiên trì chấp nhận. Thêm vào đó, từ xưa đến nay, không một chế độ nào – dù trong nước hay ngoại bang – có khả năng dập tắt hữu hiệu ngay từ trứng nước tất cả những mầm mống nổi loạn như chế độ Cộng sản Việt Nam hiện nay.


Đằng sau cái tâm lý thụ động và sẵn sàng chịu đựng ấy là nỗi sợ hãi vốn mọc rễ rất sâu trong tâm lý con người mọi nơi mọi thời. Chính nỗi sợ hãi này đã làm cho những bạo chúa, những chế độ độc tài, những tên quan độc ác tăng thêm uy quyền của mình. Chúng trèo được lên đầu lên cổ người dân chính vì người dân sẵn sàng khom lưng cho chúng cưỡi lên. Như vừa nói trên, có quan niệm cho rằng nỗi sợ hãi chung này do ảnh hưởng của Khổng giáo. Tôi nhận thấy không chỉ Khổng giáo, mà các tôn giáo khác cũng có thể góp phần tạo nên và gia cường tâm lý chung sợ hãi này.


Đúng ra các tôn giáo phải giúp giải phóng các tín đồ của mình khỏi mọi nỗi sợ hãi để sống như những con người tự do, xứng với phẩm giá của mình, vì mục đích và bản chất của tôn giáo lẽ ra phải như vậy. Nhưng các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay dường như vẫn chưa nâng cao được trình độ tâm linh các tín đồ của mình lên đúng mức phải có. Người ta vẫn còn giữ đạo vì sợ hãi: sợ bị Thượng Đế trừng phạt, sợ bị luân hồi làm thú vật, sợ bị đọa địa ngục, hơn là giữ đạo vì tình yêu, vì giác ngộ được đạo là cách sống khôn ngoan nhất để được hạnh phúc cả thân lẫn tâm. Trước Thượng Đế, người ta vẫn tự coi mình như những kẻ ăn mày chỉ biết xin xỏ cầu cạnh, hay như những kẻ làm thuê có được trả công thì mới chịu làm việc, chứ chưa thật sự tự thấy mình là những con cái được Ngài yêu thương hết mực để có thể thật sự tin tưởng và dám phó thác cho tình yêu toàn năng của Ngài. Cứ xem cách người ta cầu nguyện với Thượng Đế, với Phật tổ, với các vị thần thánh thì thấy rõ điều ấy. Chỉ có tình yêu đích thực mới giải phóng con người khỏi sợ hãi, như thánh Gioan nói: «Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo» (1Ga 4,18). Thật vậy, tình yêu đích thực và mạnh mẽ làm người ta không còn sợ hãi: một người mẹ rất yếu đuối vẫn có thể dám xông vào đám cháy để cứu con mình trong đó, đang khi những kẻ mạnh mẽ hơn rất nhiều lại không dám. Tình yêu của bà đối với con trở thành sự can đảm. Người ta trở nên hèn nhát chính vì tình yêu đích thực không có trong lòng họ. Vì thế họ chưa nhận được sức mạnh, sự dũng cảm mà đúng ra họ phải nhận được cách dồi dào từ tôn giáo của mình nếu họ sống đúng với tinh thần từ bi yêu thương của các vị giáo chủ sáng lập.

Những tín đồ tôn giáo còn có thêm bao nỗi sợ hãi do chính giới lãnh đạo tôn giáo tham quyền uy đã tạo nên cho họ. Tôn giáo nào chỉ tìm cách tăng thêm quyền uy cho giới lãnh đạo, thần thánh hóa lãnh tụ, dạy các tín đồ đồng hóa giới tăng lữ với thần thánh, với Thượng Đế, đến nỗi ai chống giới tăng lữ đều bị hiểu là chống Thượng Đế, chống thần thánh… tôn giáo ấy đang nô lệ hóa con người thay vì giải phóng họ, đang biến các tín đồ thành thứ thần dân đầy sợ hãi của mình. Trong một chế độ độc tài như chế độ Cộng sản, thứ tôn giáo như thế đang góp phần biến con người trở nên sợ hãi và hèn nhát trước bạo lực. Một tín đồ sẵn sàng khom lưng sợ hãi trước giới lãnh đạo tôn giáo mình, sẵn sàng vâng phục họ cho dù họ sai trái, thì cũng sẵn sàng khom lưng sợ hãi trước những ông vua bạo ngược, những tên quan tham lam của mình. Tôn giáo có thể như một con dao hai lưỡi: có thể giải phóng, đem lại tự do đích thực cho con người, mà cũng có thể nô lệ hóa con người. Vì thế những chế độ độc tài có thể rất sợ tôn giáo, nhưng cũng có thể coi tôn giáo như bạn đồng hành mà chúng có thể lợi dụng để làm gia tăng tâm lý sợ hãi này nơi dân chúng.


***


Trong cuộc tranh đấu dành quyền làm chủ và những quyền căn bản của con người, điều căn bản và quan trọng nhất là con người phải tranh đấu với chính nỗi sợ hãi của mình: sợ chết, sợ khổ, sợ tù tội, sợ nghèo, sợ đói, sợ bệnh, sợ khó, sợ nghịch cảnh, sợ bị khinh chê coi thường… đủ thứ sợ! Có thắng được nỗi sợ hãi ấy người dân mới có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực độc tài, vốn luôn luôn lợi dụng tâm lý sợ hãi ấy để đặt ách thống trị hà khắc lên đầu lên cổ người dân. Như vậy, phải thắng được chính mình trước đã. Lão Tử viết: «Tự thắng giả cường» [thắng mình là mạnh] ([18]). Không thắng được nỗi sợ hãi của mình, thì chẳng bao giờ mình được tự do, vì thoát khỏi cảnh nô lệ này ta sẽ rơi vào cảnh nô lệ khác.

Muốn thoát khỏi sợ, thì phải giảm bớt ham muốn: ham sống, ham giàu, ham đẹp, ham vui, ham dễ, ham danh, ham lợi, ham quyền… Càng nhiều ham muốn, càng dày tham vọng, thì càng nảy sinh nhiều sợ hãi. Cho dù là ham muốn cho cá nhân hay ham muốn cho tập thể! Ham cứu độ các linh hồn mà đành im hơi lặng tiếng, không dám làm theo tiếng lương tâm, đành chấp nhận hy sinh bản chất tôn giáo của mình, như thế có khác gì kẻ không dám bơi lại muốn cứu người chết đuối?! Cứu mình chẳng được thì cứu được ai? Thiên Chúa nào muốn con người hy sinh lương tâm của mình để cứu rỗi linh hồn người khác? Việc cứu các linh hồn tùy thuộc vào Thiên Chúa và vào chính bản thân đương sự hơn là vào những nỗ lực của người ngoài cuộc, nên bổn phận trước tiên của những ai muốn cứu các linh hồn là làm hãy theo đòi hỏi của lương tâm mình đã. Chúa nói: «Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước đã, còn mọi sự khác Người sẽ ban cho sau» (Mt 6,33). Muối có mặn thì mới ướp thức ăn được, muối đã lạt thì ướp được gì? (x. Mt 5,13) Đèn có sáng thì mới soi đường được, đèn bị tắt thì soi cho ai? (x. Mt 5,14-16). Chính mình còn đang nô lệ cho sợ hãi thì còn giải phóng hay cứu được ai?

Rất may là càng ngày dân ta càng giảm bớt sợ hãi. Đã có những tiếng nói mạnh mẽ không chỉ nơi người dân, mà còn trong nội bộ đảng Cộng sản. Những cuộc tranh đấu trong nước được đồng bào hải ngoại hỗ trợ đã phấn khích người dân trong nước bớt sợ hãi, khiến cho càng ngày càng có nhiều người trong nước lên tiếng tranh đấu. Những tiếng nói thẳng thắn và can trường trong nội bộ đảng đã làm cho đồng bào trong và ngoài nước tràn trề hy vọng. Và bây giờ, chính quyền độc tài đang từ những kẻ gây sợ hãi trở thành những kẻ sợ hãi. Chúng đang phải lùi từng bước trước cuộc tranh đấu ngày càng mạnh của nhân dân trong và ngoài nước, của những người trong và ngoài đảng. Họ đang phải lùi từng bước trước áp lực của các quốc gia yêu chuộng tự do dân chủ muốn giúp dân Việt được tự do và phát triển. Cả hai thế lực trên đều bị chúng gọi là «những thế lực thù địch»! Vì tự do và dân chủ thì đương nhiên phải là thù địch với độc tài toàn trị.

Vậy, trong viễn ảnh đầy lạc quan này, xin mọi người dân trong cũng như ngoài nước hãy can đảm lên, hãy dám nói lên những gì lương tâm mình đang đòi hỏi phải nói, hãy dám làm những gì lương tâm mình đang đòi hỏi phải làm! Đó chính là yêu nước, yêu tôn giáo của mình, và cũng là yêu Thượng Đế, yêu chân lý và công lý!


Sàigòn, ngày 10-6-2005
Nguyễn Chính Kết


([1]) Những người Công giáo đã lên tiếng cho tự do tôn giáo của Giáo Hội: 1) Giám mục Nguyễn Kim Điền, 2) Linh mục Nguyễn Văn Lý, 3) Linh mục Nguyễn Hữu Giải, 4) Linh mục Phan Văn Lợi, 5) Linh mục Chân Tín, 6) Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, 7) Ông Vũ Sinh Hiên, 8) Ông Nguyễn Chính Kết. 8 trên 6 triệu người, tức khoảng 1,3 phần triệu.

([2]) Những người đã lên tiếng cho tự do tôn giáo (xếp theo thứ tự A,B,C): 1) Giám mục Nguyễn Kim Điền, 2) Hòa thượng Thích Quảng Độ, 3) Linh mục Nguyễn Hữu Giải, 4) Hòa thượng Thích Thiện Hạnh, 5) Giáo sĩ Trương Trí Hiền, 6) Ông Nguyễn Chính Kết, 7) Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, 8) Ông Lê Quang Liêm, 9) Linh mục Phan Văn Lợi, 10) Linh mục Nguyễn Văn Lý, 11) Thượng tọa Thích Thiện Minh, 12) Mục sư Phạm Đình Nhẫn, 13) Hòa Thượng Thích Huyền Quang, 14) Mục sư Nguyễn Hồng Quang, 15) Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, 16) Thượng tọa Thích Không Tánh, 17) Linh mục Chân Tín, v.v…
Ngoài ra còn có Thượng tọa Thích Chân Hỷ của PGVNTN, cụ bà Nguyễn Thị Thu của Phật giáo Hòa Hảo, và một vài người nữa, đã tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp tôn giáo của chính quyền Cộng sản.

([3]) 20 trên 50 triệu, tức 0,4 phần triệu.

([4]) Những người đã từng lên tiếng tranh đấu cho tự do dân chủ trong nước (xếp theo thứ tự A,B,C): 1) Nguyễn Vũ Bình, 2) Hoàng Minh Chính, 3) Tiêu Dao Bảo Cự, 4) Phạm Quế Dương, 5) Nguyễn Kim Điền, 6) Thích Quảng Độ, 7) Trần Độ, 8) Nguyễn Thanh Giang, 9) Nguyễn Hữu Giải, 10) Thích Thiện Hạnh, 11) Đỗ Nam Hải, 12) Trương Trí Hiền, 13) Nguyễn Hộ, 14) Dương Thu Hương, 15) Nguyễn Đình Huy, 16) Nguyễn Chính Kết, 17) Trần Khuê, 18) Nguyễn Ngọc Lan, 19) Lê Quang Liêm, 20) Phan Văn Lợi, 21) Trần Văn Lương, 22) Nguyễn Văn Lý, 23) Thích Thiện Minh, 24) Tuệ Minh, 25) Hà Sĩ Phu, 26) Vũ Cao Quận, 27) Thích Huyền Quang, 28) Lê Chí Quang, 29) Nguyễn Hồng Quang, 30) Nguyễn Đan Quế, 31) Bùi Minh Quốc, 32) Phạm Hồng Sơn, 33) Thích Tuệ Sỹ, 34) Bùi Ngọc Tấn, 35) Thích Không Tánh, 36) Hoàng Tiến, 37) Trần Dũng Tiến, 38) Chân Tín, 39) Nguyễn Khắc Toàn, 40) Nguyễn Văn Trấn, 41) Nguyễn Thị Thanh Xuân.
xem trang web:
http://ns3578.ovh.net/~lmvntd/rubrique.php3?id_rubrique=6
([5]) 50 người trên 80 triệu dân, tức khoảng 0,63 phần triệu.

([6]) Xin đừng hiểu rằng hễ là người vô thần thì đều coi nhẹ vấn đề đạo đức. Tôi biết nhiều người vô thần còn coi trọng đạo đức hơn cả những người bình thường có tôn giáo. Nhưng phải nói rằng người có tôn giáo thì tin vào sự sống đời sau và vào sự thưởng phạt của tạo hóa hay của luật thiên nhiên ở đời sau. Điều này khiến họ phải đặt nặng vấn đề đạo đức hơn. Còn người vô thần không tin có đời sau, họ cho rằng chết rồi là hết, nên nếu họ không có lương tâm, thì họ không sợ hậu quả ở đời sau cho những việc làm thiếu đạo đức của mình ở đời này. Riêng tôi, tôi rất phục những người vô thần mà thật sự có lương tâm. Tôi đánh giá rất cao nền đạo đức của họ. Họ đạo đức vì bản chất đạo đức của họ chứ không vì sự thưởng phạt ở đời sau.

([7]) Kolping: một hội đoàn công giáo tiến hành đặc biệt cho giáo dân, do linh mục Adolph Kolping (1813-1865) sáng lập tại Köln (Đức), hiện đã có mặt trong khoảng 70 nước trên thế giới. Đây là một đường hướng sống đạo đặt nặng vấn đề dấn thân xã hội, sống yêu thương, thân thiện với nhau như gia đình.

([8]) Giá vàng hiện nay: một cây vàng giá khoảng 8 triệu đồng VN, tương đương với trên 500 USD.

([9]) Thượng tọa Thích Thiện Minh vừa được trả tự do dịp tết Ất Dậu 2005.

([10]) Xem thông cáo báo chí làm tại Paris ngày 26.3.2005

([11]) Giáo phái Tin Lành Mennonite Việt Nam là một trong số các Hội Thánh Tin Lành Tư Gia thuộc Hiệp Hội Thông Công Tin Lành Việt Nam (Vietnamese Evangelical Fellowship). Hiệp hội này gồm các giáo phái Tin Lành Tư Gia – chủ trương “về nguồn” – tụ tập sinh hoạt thờ phượng Chúa tại tư gia như các tín hữu Kitô thời sơ khai. Họ chủ trương không xây đền thờ vật chất cho bằng xây đền thờ Thiên Chúa trong tâm hồn người tín hữu. Họ thường không được nhà nước Việt Nam chấp nhận, nên mọi sinh hoạt tôn giáo của họ đều bị nhà nước coi là bất hợp pháp.

([12]) Các tôn giáo có hai khuynh hướng suy nghĩ khác nhau:
– một đằng đặt nặng việc tồn tại và phát triển hơn bản chất tôn giáo mình: thà mất đi một chút bản chất mà còn tồn tại thì vẫn hơn. Trong thực tế, Giáo Hội Công giáo và Tin Lành Việt Nam có vẻ như theo khuynh hướng này.
– một đằng đặt nặng bản chất tôn giáo hơn sự tồn tại và phát triển: thà chấp nhận khó khăn, không sinh hoạt được còn hơn mất bản chất Kitô hữu của mình. Đức Giêsu nói: «Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi» (Mt 5,13). Đây là chủ trương của nhiều Hội Thánh Tin Lành Tư Gia.

([13]) Kitô giáo nói ở đây là Công Giáo và Tin Lành Việt Nam (không kể các Hội Thánh Tin Lành Tư Gia).

([14]) Nội dung Pháp Lệnh Về Tín Ngưỡng, Tôn Giáo số 21/2004/PLUBTVQH11 do Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2004 cho thấy rõ điều này.

([15]) Trong thực tế tại Việt Nam, chữ «tự do» trong các văn bản luật pháp, chẳng hạn trong Pháp Lệnh Tín Ngưỡng và Tôn Giáo vừa ban hành (18-6-2004), có nghĩa là người dân được tự do làm tất cả mọi điều luật pháp không cấm, với điều kiện là phải xin phép; chính quyền có cho thì mới được làm. Không xin phép mà vẫn cứ làm là vi phạm luật pháp. Hiện nay, nghĩa này chỉ còn được áp dụng chặt chẽ trong phạm vi tôn giáo, còn trong phạm vi khác thì lỏng lẻo hơn rất nhiều. Riêng các quan chức cộng sản thì trong thực tế, càng cao cấp, càng có thể làm được cả những việc luật pháp cấm làm mà không sao cả: như cướp đất của dân, hối lộ tham nhũng hàng tỷ đô la, thâm lạm công quỹ, phí phạm của công, v.v... Dân có ra tận Hà Nội biểu tình, khiếu kiện trước Quốc Hội thì các quan vẫn cứ phây phây, không sao cả! Vì thế, đối với các quan cộng sản thì chẳng một đất nước nào trên thế giới tự do bằng Việt Nam! Quả thật, các quan ở đây bảo Việt Nam tự do gấp triệu lần Mỹ là họ rất thành thật đấy! Không sai sự thật chút nào cả! Vì các quan cộng sản được làm cả những việc luật pháp cấm! Các quan ở Mỹ làm gì được như vậy? Bill Clinton kia làm tới chức tổng thống Mỹ, thế mà mới «động» tới Monica Lewinsky một chút là đã bị đem ra tòa xử rồi! Các quan Việt Nam tự do hơn các quan Mỹ hàng triệu lần là đúng đấy! Chỉ
riêng có người dân là... thiếu tự do thôi!!!

([16]) Chẳng hạn hai cuốn Tôn giáo dưới ách Cộng sản và Tù ngục với Chúa của mục sư Richard Wurmbrand (giáo phái Lutêrô ở Rumani), dịch giả Thanh Sơn, xuất bản tại Sàigòn năm 1970 và 1973. Tác giả kể nhiều câu chuyện cho thấy có cả những đạo trưởng cao cấp như Thượng Phụ (Chính Thống), Mục sư Tổng Quản (Tin Lành), Tổng Giám Mục (Công giáo)… sẵn sàng làm “ăng-ten”, chỉ điểm, cộng tác với chế độ Cộng sản để bách hại những người dám tranh đấu cho Giáo Hội hoặc cho quê hương đất nước. Nếu ở những nước ấy có những loại mục tử như thế, thì tại Việt Nam chắc hẳn cũng khó tránh khỏi. Nhưng rồi tất cả những hành động tệ hại ấy cũng sẽ được đưa ra ánh sáng: «Không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ» [Quidquid latet apparebit] (Mt 10,26).

([17]) Điều răn thứ sáu trong Thập Giới của Kitô giáo là: «Chớ làm sự dâm dục».

([18]) Lão Tử, Đạo Đức Kinh, chương 33, a.

 

 

Trở lại trang chính


Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

[Trang nhà] [Về MLNQ] [Luật Nhân Quyềnn] [Tài liệu] [Tin nhân quyền] [Diễn đàn] [Tham gia] [Tải xuống] [Liên kết]