Lm
Nguyễn Hữu Giải và Lm Phan Văn Lợi tham luận trước QH Hoa Kỳ
Kính thưa Quý Nghị sĩ và Dân biểu Quốc hội Hoa Kỳ
Chúng tôi là hai linh mục Công giáo Việt Nam, Peter Nguyễn Hữu Giải
và Peter Phan Văn Lợi, đang đấu tranh cho tự do tôn giáo tại Tổng
giáo Phận Huế, xin kính chào toàn thể Quý vị và chân thành cảm ơn
Quý vị đã cho phép chúng tôi phát biểu đôi lời về hiện tình Công
giáo tại Việt Nam nói chung và tại Huế nói riêng.
Mới đây chúng tôi có nghe tin Chính phủ Hoa Kỳ đã ký với Chính phủ
Cộng sản Việt Nam một thỏa ước về tự do tôn giáo. Gần đây hơn nữa,
45 vị Nghị sĩ và Dân biểu đã gởi một thỉnh nguyện thư lên Tổng thống
Hoa Kỳ để trình bày về tình hình nhân quyền và tự do tôn giáo tại
Việt Nam cũng như để kiến nghị Tổng thống đòi hỏi Thủ Tướng CSVN
phải thực tâm giải quyết những vấn đề này. Đó là những sáng kiến hay
ho và đúng lúc nhằm giúp đỡ cho nhân dân Việt Nam chúng tôi. Chúng
tôi hết lòng hoan nghênh và cảm ơn Quý vị về những sáng kiến đó.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin phát biểu vài cảm nghĩ:
1- Vào chính thời điểm ký thỏa ước nói trên và cho tới hôm nay,
chính quyền CSVN vẫn tiếp tục đàn áp tôn giáo và hạn chế nhân quyền,
y như thỉnh nguyện thư của Quý vị có khẳng định. Riêng tại Giáo phận
Huế chúng tôi có vài sự kiện nổi cộm: viên bí thư tỉnh ủy kiêm đại
biểu quốc hội tỉnh Quảng Trị, đầu tháng 5-2005, trong một cuộc tiếp
dân, đã ngang nhiên hù dọa các giáo dân ở Khe Sanh, Cam Lộ rằng:
“Theo đạo là theo địch, theo đạo là chống đảng, theo đạo là xây lưng
với dân tộc!”. Chúng tôi đang điêu đứng vì Pháp lệnh và Nghị định về
tôn giáo. Hai văn kiện này nay giao việc kiểm soát mọi sinh hoạt tôn
giáo cho chính quyền địa phương xã huyện. Những viên chức này tha hồ
tự tung tự tác, gây vô vàn khó khăn cho việc bổ nhiệm các chức sắc,
cho việc đăng ký tu sinh, cho việc tổ chức các sinh hoạt đạo, cho
việc đòi lại các tài sản của Giáo hội bị tước đoạt. Cộng sản vẫn
tiếp tục cướp 102/107ha đất đan viện Thiên An, 17/23ha5 đất thánh
địa La Vang, 1700m2 đất thành phố của dòng Chúa Cứu Thế, 200m2 đất
thành phố của dòng Đức Bà Đi Viếng, vẫn tiếp tục đàn áp và cướp bóc
giáo xứ Kế Sung.
Điều đó một lần nữa cho thấy Chính phủ CSVN tuy từng ký nhiều văn
kiện pháp lý quốc tế nhưng họ chẳng bao giờ tuân giữ: kể từ hiệp
định Geneva 1954 đến hiệp định Paris 1973, từ Tuyên ngôn Quốc tế
Nhân quyền 1948 đến Công ước Quốc tế về các Quyền dân sự và chính
trị 1976. Thỏa ước về tự do tôn giáo mà CSVN vừa ký với Chính phủ
Hoa Kỳ, theo nhận định của chúng tôi, cũng chỉ là một tính toán, một
chiến thuật của CSVN nhằm mục đích thoát khỏi sự liệt kê vào danh
sách các nước CPC cũng như đạt được những thuận lợi cho chuyến đi
của thủ tướng CSVN. Hai mục tiêu này hoàn thành, CSVN sẽ tiếp tục
đàn áp nhân quyền và tôn giáo cách mạnh mẽ hơn, chứ không bao giờ
thực sự giải quyết những vấn đề dân chủ này, vì bản chất của chế độ
CS là độc tài, độc đảng, chuyên chế.
2- Theo thiển ý chúng tôi, để giải quyết vấn đề tận căn, trước mắt
nhà nước CSVN phải lập tức hủy bỏ Pháp lệnh tôn giáo và Nghị định áp
dụng pháp lệnh này. Tổng thống Thomas Jefferson của Quý vị từng đưa
ra chủ trương biệt lập giữa tôn giáo và nhà nước (Separation of
church and state). Theo nguyên tắc đó:
a/
nhà nước không được thành lập những giáo hội quốc doanh để tước đoạt
tư cách pháp nhân của các giáo hội dân lập đã hoạt động từ trước. Đó
chính là Quyền thành lập tôn giáo và giáo Hội dành cho công dân
(Establishment Clause);
b/
Nhà nước không được can thiệp, kiểm soát hay giám sát các giáo hội
trong các sinh hoạt tôn giáo, trái lại các giáo hội được sinh hoạt
tự trị. Và đó là Quyền tự do truyền giáo và hành đạo (Free Exercise
Clause). Hai điều khoản này trong Hiến pháp của Quý vị đủ cho Quý vị
thấy Pháp lệnh tôn giáo do CSVN áp đặt lên chúng tôi là vô lý, vô
luật và hết sức tai hại.
Về lâu về dài, chúng tôi, mọi nhà đấu tranh cho tự do chính trị và
tự do tôn giáo tại Việt Nam, quyết tâm đòi hủy bỏ điều 4 trong Hiến
pháp nước CHXHCNVN là điều cho phép đảng CSVN độc quyền lãnh đạo đất
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa độc quyền thực thi trên đất nước và
chủ nghĩa Mác-Lênin độc quyền thống trị tâm tư tình cảm của mọi
người dân Việt. Chính sự độc quyền toàn trị này làm cho những vấn đề
về nhân quyền, tôn giáo, xã hội, chính trị, văn hóa, đạo đức tại
Việt Nam không bao giờ được giải quyết. Ngoài ra nó cũng làm cho mối
bang giao của Hoa Kỳ với Việt Nam (như hợp tác, viện trợ, buôn bán,
vận động dân chủ…) chẳng bao giờ hữu hiệu, có lợi cho nhân dân Việt
Nam, ngược lại chỉ bị đảng CSVN lạm dụng để củng cố quyền lực và gia
tăng quyền lợi cho mình.
Chúng tôi xin cảm ơn Quý vị đã lắng nghe. Xin Thiên Chúa chúc lành
cho Hoa Kỳ và cho toàn thể Quý vị.
Huế, ngày 13-6-2005
Lm Peter Nguyễn Hữu Giải và Lm Peter Phan Văn Lợi.
(Bổ túc theo yêu cầu của UBTDTGVN, gởi ngày 15-6-2005)
Kính thưa Quý vị,
Trên đây là những sự kiện tổng quát và lớn lao liên quan đến tự do
tôn giáo tại Việt Nam. Sau đây, tôi, linh mục Phan Văn Lợi, trong tư
cách chứng nhân và nạn nhân, xin đưa thêm vài sự kiện của bản thân,
liên quan đến việc CSVN đàn áp tôn giáo, như một trường hợp điển
hình để Quý vị thấy rõ.
Đầu năm 1978, chính quyền CS tỉnh Thừa Thiên muốn dựa vào nghị quyết
297/CP (một văn bản về tôn giáo lúc ấy) để loại bỏ một số đại chủng
sinh khỏi Đại chủng viện mà họ cho là “có sạn trong đầu”, “vô phương
cải tạo”. Tôi và 17 anh em trong số đó (tức 18/45) bị Nhà nước ngang
nhiên trục xuất tháng 5/1978. Số này phần nhiều là lớp lớn, đã đào
tạo xong hoặc gần xong, có đầu óc “bướng bỉnh”!
Trở về nhà cha mẹ tại giáo xứ Phủ Cam, tôi không còn hy vọng được
chịu chức linh mục công khai với sự cho phép của chính quyền, nên
đành âm thầm theo đuổi ơn gọi. May thay, đến ngày 21-5-1981, tôi đã
được Đức Giám mục Nguyễn Văn Thuận (sau này là Hồng y), đang bị quản
thúc tại giáo xứ Giang Xá, địa phận Sơn Tây, gọi đến để truyền chức
linh mục trong bí mật. Ngài cấm tôi tiết lộ với ai điều này.
Bốn tháng sau, vào ngày 21-9-1981, tôi và một số chủng sinh giáo xứ
Phủ Cam có làm một vở kịch nhỏ giúp vui trong một buổi họp mặt với
phụ huynh. Vở kịch nhỏ này có lấy lại một chi tiết đã xảy ra ngày
15-8-1981 tại bến xe Mỹ Chánh, tỉnh Quảng Trị. Chi tiết này là việc
công an ngăn chận các Kitô hữu đi hành hương đến La Vang, một trung
tâm Thánh mẫu tại Quảng Trị. Một tháng sau, 21-10-1981, tôi và 4
chủng sinh khác bị bắt. Nhà nước CS kết tội chúng tôi là “tuyên
truyền phản cách mạng”. Tôi bị án tù 4 năm, những người khác bị từ 3
năm rưỡi đến 2 năm. Khi sắp hết án tù tại “trại cải tạo” Đồng Sơn (tỉnh
Đồng Hới), thì CS khám phá ra tôi là một linh mục đã chịu chức bí
mật. Thế là họ chuyển tôi vào “trại cải tạo” Bình Điền (tỉnh Thừa
Thiên), phạt thêm 3 năm nữa. Tổng cộng tôi ở tù 7 năm và được thả ra
tháng 10-1988.
Tôi lại phải về nhà cha mẹ chứ không được bổ nhiệm đi một giáo xứ
nào. Từ đây tôi chỉ đi dâng thánh lễ, dạy học cách bí mật cho các
dòng tu, các cộng đoàn, vì công an tiếp tục theo dõi tôi. Đến tháng
6-1998, công an gọi tôi đi thẩm vấn về hai tội: phổ biến tài liệu
chính trị phản động và in ấn tài liệu tôn giáo không xin phép. Họ
đến nhà tôi lục tài liệu phản động nhưng không có. Dù sao họ cũng
tịch thu toàn bộ máy vi tính của tôi, lấy cớ tôi đã biên soạn, in ấn
và phổ biến những bài suy niệm Tin mừng cho các linh mục và các dòng
tu tại Huế mà không xin phép nhà nước (trung bình 200 tập dày 15
trang A4 mỗi tháng).
Đầu năm 2001, tôi hỗ trợ linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý và linh mục
Phêrô Nguyễn Hữu Giải trong việc đấu tranh cho tự do tôn giáo và dân
chủ nhân quyền. Công an liền gọi tôi đi thẩm vấn trong vòng một
tháng, sau đó tôi từ chối không đi đến đồn nữa. Thế là từ tháng
4-2001, họ quản thúc tôi tại gia đình cho đến hôm nay (6-2005). Tôi
không còn có thể ra ngoài để làm các công việc bình thường của một
linh mục và của một công dân. Tôi đã trở thành tù nhân trong chính
gia đình mình. Trong ba năm đầu, 2001-2003, công an còn ngăn chận,
khám xét, hăm dọa những người đến thăm tôi, dù đó là bà con ruột
thịt hay bạn hữu, là người thường hay các linh mục. Tháng 1-2004,
một số thành viên trong phái đoàn của Nghị sĩ Sam Brownback, khi đến
thăm tôi ban đêm, đã bị chận lại chỉ cách nhà tôi 15m nên không vào
được. Tháng 3-2005, một thành viên của YMCA cũng muốn đi từ toà giám
mục Huế đến nhà tôi (cách nhau 1000m) để thăm tôi nhưng cũng bị công
an ngăn chận. Nhiều cá nhân và đoàn thể hải ngoại, thậm chí nhân
viên tòa đại sứ Hoa Kỳ (tôi nghe kể lại) cũng từng muốn đến thăm tôi
nhưng đều bị ngăn chận từ xa.
Công an cũng cắt điện thoại (để bàn) của tôi mà cũng là của gia đình
tôi kể từ tháng 4-2001 đến hôm nay. Thế là tôi không còn có thể gởi
emails và lên mạng internet. Sau đó tôi chuyển sang dùng điện thoại
di động thì cũng thường xuyên bị nghe lén. Có lần công an dọa tôi (trong
điện thoại) là nếu tôi ra khỏi nhà họ sẽ bắn chết tôi (tháng
1-2004). Từ đầu năm 2004 đến nay, tôi đã bị công an khóa (tức là phá
hủy) 14 cái SIM Cards và chắc chắn họ sẽ còn phá hủy nữa, để không
cho tôi liên lạc với bạn bè, với nước ngoài, với các tổ chức tranh
đấu.
Tôi luôn sẵn sàng để bị bắt đi tù bất cứ lúc nào. Nhưng bao lâu chưa
vào tù, tôi còn tiếp tục đấu tranh cho tự do tôn giáo và dân chủ
nhân quyền. Hiện tôi ở tại 46/16 Trần Phú, Huế, cùng với cha mẹ già
trên 80 tuổi và một người em gái trên 40 tuổi thất nghiệp.
Trở lại trang chính
Mạng
Lưới Nhân Quyền Việt Nam
[Trang
nhà] [Về MLNQ]
[Luật Nhân Quyềnn]
[Tài liệu] [Tin
nhân quyền] [Diễn
đàn] [Tham gia]
[Tải xuống] [Liên
kết] |